Tác giả: GS. Tsuboi Yoshiharu (Đại học Waseda)
Bài đã được xuất bản.: 01/09/2010 VN net
Con người Hồ Chí Minh được phản ảnh sắc nét trong Hiến pháp là một người theo chủ nghĩa cộng hòa và chủ nghĩa hòa bình hơn là một người theo chủ nghĩa cộng sản - Góc nhìn riêng của GS Nhật Bản Tsuboi Yoshiharu.
LTS: Có thể nói, Hồ Chí Minh là một nhân vật lịch sử, một lãnh tụ đặc
biệt của đất nước. Đã có biết bao nhiêu công trình, đề tài nghiên cứu về Người
của các học giả trong nước, nước ngoài với các góc nhìn khác nhau.
Bài viết dưới đây của GS Tsuboi Yoshiharu (ĐH Waseda-Nhật Bản) đã được ông trình
bày tại Hội thảo Quốc tế về Việt Nam học lần thứ 3 tổ chức tại Hà Nội tháng
12/2008. Khảo cứu này của ông Tsuboi Yoshiharu đã gây được sự chú ý của dư luận
vì góc nhìn khác lạ.
Để rộng đường dư luận, tôn
trọng tính thông tin đa chiếu, Tuần Việt Nam xin đăng tải toàn văn nghiên cứu
này của ông Tsuboi, một nhà Việt nam học nổi tiếng như một góc nhìn cần
tham khảo. Mời bạn đọc cùng tranh luận.
Góc nhìn khác
Trong bài viết này, chúng ta thử
thoát khỏi những quan niệm về "Tư tưởng Hồ Chí Minh" cũng như cách
đánh giá Ông Hồ như một người cộng sản Max - Lenin, lần theo những nẻo đường
trong cuộc đời Hồ Chí Minh để khảo cứu lại tư tưởng của Ông trên một lập trường
giá trị tự do hơn.
Từ khi bắt đầu nghiên cứu VN năm
1973, mỗi lần có cơ hội, tôi lại cố gắng lần theo những dấu vết cuộc hành trình
của Hồ Chí Minh. Bắt đầu từ xã Kim Liên, huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An - quê
hương của Hồ Chí Minh, tôi lần theo dấu chân Ông ở Nhà kỉ niệm Hồ Chí Minh ở
Vinh - thủ phủ của tỉnh Nghệ An, phòng làm việc, Bảo tàng và Lăng Chủ tịch Hồ
Chí Minh ở trung tâm của Thủ đô Hà Nội, Bảo tàng Hồ Chí Minh ở TP Hồ Chí Minh,
trường Quốc học Huế, v.v...
Ở Trung Quốc, tôi đã đến thăm
Hồng Kông, Quảng Đông, Thượng Hải, Diên An, v.v... Tôi cũng tìm đến ngôi nhà Hồ
Chí Minh từng sống ở Moscow. Tôi đã đứng trong ngôi nhà ở phố Compoint, được
coi là nơi hoạt động của Hồ Chí Minh ở Paris. Tại London, tôi đã tới thăm khách
sạn nơi Ông từng làm đầu bếp dưới sự hướng dẫn của Escoffier. Ở New York, tôi
đã thử hình dung Hồ Chí Minh đã ngắm nhìn bức tượng Nữ thần Tự Do từ góc độ
nào.
Tôi cũng có dịp thảo luận với
các nhà nghiên cứu Hồ Chí Minh người Pháp như Brocheux, G. Boudarel... Đương
nhiên, tôi cũng có dịp trao đổi ý kiến với những nhà trí thức, học giả người
Việt như Trần Văn Giàu, Trần Bạch Đằng, Nguyễn Đình Đầu, Phan Huy Lê, Vũ Minh
Giang, Nguyên Ngọc, v.v... Trong quá trình tìm hiểu, khám phá và trao đổi, tôi
luôn cảm thấy dường như chưa ai đoán đúng được tư tưởng "bè trầm liên
tục" (basso continuo) của Hồ Chí Minh.
Cho đến gần đây, tôi nhận
ra rằng có lẽ giá trị mà Hồ Chí Minh coi trọng nhất trong suốt cuộc đời của
mình là những giá trị của nền cộng hòa. Tôi cho rằng nếu nhận thức Hồ Chí Minh
như một người theo chủ nghĩa cộng hòa, chúng ta có thể đánh giá được một cách
đầy đủ và đúng đắn nhất những tư tưởng và hành động của Ông.
Không ai phủ nhận việc Hồ Chí
Minh là một nhà ái quốc. Mục tiêu tối thượng của Ông là giải phóng dân tộc và
giành lại nền độc lập cho Tổ quốc từ tay thực dân Pháp. Để thực hiện công cuộc
đó, cơ sở lý luận của Ông là "Tự do, Bình đẳng, Bác ái" - những biểu
tượng của nền cộng hòa.
Khi đặt chân đến nước Pháp, đất nước đã
biến VN thành thuộc địa, Ông phát hiện ra rằng tầng lớp lao động nghèo khổ ở
Pháp cũng ở trong tình cảnh bi thảm như các dân tộc bị áp bức ở thuộc địa. Đồng
thời, Ông cũng ngạc nhiên trước tinh thần cộng hòa đối xử bình đẳng với con
người bất kể sự khác biệt màu da, ngôn ngữ, văn hóa.
Có một câu chuyện nổi tiếng liên
quan đến vấn đề này. Sau chuyến hải hành dài bắt đầu từ Sài Gòn, cuối cùng Hồ
Chí Minh cũng đến được Maseille. Đây là lần đầu tiên Ông Hồ đặt chân lên nước
Pháp. Ông vào một quán cà phê và gọi một tách cà phê. Người hầu bàn đáp lại:
" Vâng, thưa Ông" (Oui, Mousieur). Khi còn ở Việt Nam dưới ách thống
trị của thực dân, Hồ Chí Minh chưa bao giờ được gọi bằng từ
"Mousieur".
Đối với chàng thanh niên Hồ Chí
Minh khi đó mới 21 tuổi, được một người Pháp gọi là "Mousieur" là một
sự ngạc nhiên thú vị. Có lẽ khi đó người hầu bàn cũng không nghĩ rằng vị khách
của mình là một người VN đến từ xứ thuộc địa, hoặc cũng có thể do anh ta không
quan tâm tới quốc tịch của vị khách. Câu nói của người hầu bàn chỉ là một câu
nói "đương nhiên" thường dùng để xác nhận với khách hàng. Thế nhưng,
đối với Hồ Chí Minh, một người vốn đã quen chứng kiến cảnh phân biệt đối xử ở
xứ thuộc địa, câu trả lời "đương nhiên" đó lại là một hiện tượng thật
ngạc nhiên và mới mẻ.
Tinh thần nền cộng hòa Pháp
Tinh thần nền cộng hòa Pháp mang
tính lý tưởng cao. Qua Cách mạng Pháp, một quan điểm mới về giá trị con người
khác hẳn với giai đoạn trước đã được xác lập. Như đã thể hiện trong câu nói của
bản Tuyên ngôn Nhân quyền: "Người ta sinh ra tự do và bình đẳng".
Sự khác biệt căn bản nhất của thời cận đại so với các thời đại khác là sự thay
đổi 180 độ quan điểm về giá trị con người. Tinh thần nền cộng hòa chính là
cuộc vận động nhằm tạo nên và lý tưởng hóa hình tượng con người mới, thúc đẩy
mỗi cá nhân tiếp cận với hình tượng lý tưởng đó.
Đó là cách nhận thức con
người bằng việc bài trừ những thuộc tính cá nhân. Lấy ví dụ, nó không quan tâm tới người đó là người Nhật hay người
VN, sinh ra ở tỉnh nào, xuất thân trong gia đình hay dòng họ nào, bao nhiêu
tuổi, là nam hay nữ. Vấn đề quan trọng là con người đó với tư cách là một
"cá nhân" có đủ khả năng suy nghĩ một cách lý tính hay không.
Nền cộng hòa được xây dựng
bởi những cá nhân là nhân dân Pháp, bất kể giai cấp, màu da hay người đó có
sinh ra ở Pháp hay không. Do vậy, nhiệm vụ quan trọng nhất của nền cộng hòa
là phải giáo dục ra được những "cá nhân" có đủ khả năng suy nghĩ một
cách lý tính.
Tuy nhiên, không dễ dàng hiện
thực hóa được những lý tưởng đó của tinh thần cộng hòa. Đã có rất nhiều hành
động nhằm kéo xã hội quay về với tư tưởng cũ. Để xác lập được tinh thần cộng
hòa, nước Pháp cần phải đợi đến thời kì nền Đệ tam Cộng hòa, khoảng 100 năm sau
Cách mạng Pháp.
Ở nước Pháp khi đó cũng như ngày
nay, nông dân luôn đóng vai trò trung tâm. Họ có tư tưởng cực kì
bảo thủ. Ở người nông dân, tình cảm thích nhà vua, coi trọng gia đình,
truyền thống và dòng dõi là hết sức mạnh mẽ. Trong số họ có rất nhiều người vừa
hiếu kì đối với những người khác, đồng thời lại có những suy nghĩ mang tính
phân biệt chủng tộc, cho rằng người da trắng ưu việt hơn so với các chủng tộc
khác.
Cách mạng Pháp đã thay đổi tư
tưởng bảo thủ của nông dân thành những "cá nhân" theo giá trị con
người kiểu cận đại, quá trình biến đổi đó kéo dài 100 năm. Ngay trong thời đại hiện nay, dù có quá nửa người Pháp tán thành tinh thần
cộng hòa, nhưng rõ ràng cũng có không ít người vẫn duy trì thể trạng cũ của
nông dân.
Nói một cách chính xác hơn,
vẫn còn rất nhiều người vẫn mang trong mình mâu thuẫn giữa một bên là con người được giáo dục để mang tinh thần cộng hòa một cách tự
giác, với một bên là quan điểm bảo thủ về giá trị con người vốn được nuôi dưỡng
trong môi trường gia đình thủ cựu.
Trong khi đó, người VN lại
hoàn toàn ngược lại. Người VN trước tiên coi trọng thuộc tính. Mỗi khi đến VN, tôi thường rất lúng túng khi bị người VN đặt những
câu hỏi liên quan đến cá nhân như bao nhiêu tuổi, làm việc cho công ty nào, ở
vị trí gì, xuất thân từ trường đại học nào, vùng nào, tầng lớp nào, gia đình
như thế nào. Hay những câu hỏi đại loại như "Đã kết hôn chưa, nếu có con
thì được mấy con rồi?", "Con mấy tuổi", v.v...
Tại sao người VN lại chấp nhặt
những thông tin cá nhân và hoàn cảnh gia đình như vậy. Đó là vì thông qua
những câu hỏi đó, người VN muốn làm rõ vị trí của đối phương, dựa vào đó xác
định rõ ràng mối quan hệ xã hội trên dưới giữa mình và đối phương.
Từ đó, quan hệ đó sẽ được
phản ánh qua cách dùng từ và động tác ứng xử, qua việc sử dụng cách nói kính
trọng hay khiêm tốn, có nên chào hỏi và bắt tay như đối với người lớn hơn hay
không. Để xây dựng được quan hệ tốt đẹp cho hai bên và ứng xử đúng với
những quy tắc xã hội vô hình, trước tiên người Việt phải tìm hiểu những thuộc
tính của đối phương.
Đây không chỉ là truyền thống
của riêng VN mà là truyền thống của cả khu vực theo văn hóa Nho giáo, tương ứng
với thế giới Đông Á bao gồm cả Trung Quốc, Hàn Quốc và Nhật Bản, những nơi cũng
lấy "quan hệ" giữa con người với con người làm quy tắc chuẩn cho hành
động.
Ở Đông Á, nơi thuộc tính
cá nhân và quan hệ con người đóng vai trò chủ đạo, người ta đã không lý giải
được hết được tinh thần nền cộng hòa. Người ta
thường viện dẫn những ví dụ của nước Pháp và nước Mỹ để đưa ra những định nghĩa
mang tính mô phỏng về nền cộng hòa, kiểu như nền cộng hòa là việc chặt đầu nhà
vua, phế bỏ chế độ quân chủ, xây dựng thể chế chính trị "của dân, do dân
và vì dân". Nền cộng hòa là thể chế chính trị mà nhân dân đóng vai trò
chính, v.v... Người ta đã không đạt tới được nhận thức rằng, điều kiện
tiền đề của nền cộng hòa là những "cá nhân" theo quan điểm giá trị
mới về con người.
Tinh thần nền cộng hòa của Hồ
Chí Minh
Người viết cho rằng có
lẽ Hồ Chí Minh là lãnh đạo chính trị duy nhất ở Đông Á nhận thức được một cách
đúng đắn nhất tinh thần nền cộng hòa và Ông đã cố gắng đưa nó vào Việt Nam.
Tôi muốn lần theo những hành động của Hồ Chí Minh trong quãng thời gian 10
năm Ông phát huy được năng lực lãnh đạo của mình nhất, tức là quãng thời
gian từ lúc về nước từ năm 1941 sau 30 năm bôn ba ở hải ngoại đến năm
50, để chứng minh cho giả thuyết nêu trên.
Trước tiên, tôi cho rằng cần
phải khảo cứu lại vấn đề tại sao Hồ Chí Minh lại "phát hiện" ra Lenin
và trở thành một người CS. Để định nghĩa lại Hồ Chí Minh từ một người CS Max-
Lenin trở thành một người theo chủ nghĩa cộng hòa, cần phải làm rõ mối quan hệ
này.
Hồ Chí Minh biết đến Lenin nhờ
đọc bài viết được công bố của Lenin về vấn đề thuộc địa. Ông đã bị thu hút mạnh
mẽ bởi mối quan tâm sâu sắc cũng như cách đưa ra những phương pháp giải quyết
cụ thể đối với vấn đề thuộc địa của Lenin. Ông Hồ cho rằng để giải phóng dân
tộc thuộc địa, chỉ có con đường duy nhất là Đảng CS, do vậy Ông đã từ bỏ Đảng
Xã hội và trở thành một trong những thành viên sáng lập Đảng CS Pháp.
Sau đó, Ông sang Moscow, trở
thành một thành viên của Quốc tế CS và hoạt động năng nổ. Kể từ lúc đó, trong
quá trình hoạt động của mình, Ông học được rằng, để giành được độc lập cho
VN từ tay nhà nước cận đại Pháp, một trong những liệt cường của Tây Âu có lực
lượng quân sự và chính trị khổng lồ, cần phải có một tổ chức đoàn kết chặt chẽ
đóng vai trò trung tâm cho công cuộc giải phóng, cũng như cần hoạt động liên
kết quốc tế nhằm nhận được sự đồng cảm rộng rãi từ quốc tế.
Ông đồng tình với đề xướng của
Lenin về Bôn-sê-vích, Đảng CS- một đảng tiên phong có kỉ luật sắt. Về điểm này,
đúng là Hồ Chí Minh là một người theo chủ nghĩa Lenin. Tuy nhiên, ngoài
mặt tổ chức, Hồ Chí Minh cho rằng vấn đề cần ưu tiên nhất là đấu tranh giải
phóng dân tộc giành lại độc lập cho VN chứ không phải là vấn đề giai cấp. Về
mặt này, Hồ Chí Minh không phải là một người CS "chính thống" theo
chủ nghĩa Marx - Lenin.
Đối với những người CS
"chính thống", việc Hồ Chí Minh coi trọng giải phóng dân tộc, coi nhẹ
đấu tranh giai cấp là hành động xa rời chủ nghĩa cộng sản, do đó, Ông Hồ đã bị
phê phán một cách gay gắt và công khai. Furuta Motoo, tham khảo nghiên cứu của
Kurihara Hirohide đã trích dẫn một phần lá thư của Ủy ban hải ngoại Đảng CS
Đông Dương gửi cho Quốc tế CS như sau:
"Ở Đông Dương, các
tổ chức CS đã triển khai một cuộc đấu tranh công khai với đường lối của đồng
chí Nguyễn Ái Quốc và VN Thanh niên Cách mạng đồng chí hội - đường lối là tàn
dư kết hợp giữa chủ nghĩa dân tộc với chủ nghĩa cải lương duy tâm. Tàn dư này
hết sức nặng nề và đang trở thành một chướng ngại cho sự phát triển của chủ
nghĩa CS. Cần thiết phải đấu tranh không thương tiếc với chủ nghĩa cơ hội và lý
luận kiểu cũ của Quốc và Việt Nam Thanh niên Cách mạng đồng chí hội. Chúng tôi
đề xuất đồng chí Lin (Bút danh lúc đó của Nguyễn Ái Quốc - Tsuboi) phải viết
bản tự kiểm điểm bản thân".
Trước những phê phán này, Ông Hồ
đã phải thay đổi đôi chút lập trường của mình và phải rất vất vả để giữ được vị
trí của mình trong Quốc tế CS. Tuy nhiên, ông đã bị gạt ra ngoài hoạt động lãnh
đạo của Đảng CS Đông Dưong và bị buộc phải sang Moscow học tập. Nhưng cũng nhờ
đó mà Ông Hồ đã thoát chết.
Dưới sự đàn áp khốc liệt của
nhà nước đương cục thực dân, những người CS đã phê phán Ông Hồ hoặc bị chết
hoặc bị xử tử. Lê Hồng Phong bị bắt tháng 6 năm
1938 và sau đó qua đời trong tù vào khoảng tháng 9 năm 1942. Hà Huy Tập bị bắt
tháng 7 năm 1938, sau đó được thả ra một thời gian rồi bị bắt lại năm 1940 và
bị xử tử vào tháng 8 năm 1941.
Khi Ông Hồ trở về nước vào
năm 1941, ở VN hầu như không còn một người CS "chính thống" nào. Nhờ
vậy, trong quãng thời gian 10 năm tính từ khi trở về nước năm 1941, Ông Hồ, dựa
vào sự ủng hộ của Quốc tế CS cũng như tiếng tăm của mình, đã có thể hành động
một cách tự do hơn theo những suy nghĩ của mình.
Có một giai thoại thể hiện rất
rõ hình ảnh Hồ Chí Minh là một người theo chủ nghĩa cộng hòa. Năm 1941, Hồ Chí
Minh về nước sau 30 năm bôn ba ở hải ngoại, chủ trì Hội nghị lần thứ 8 Ban CHTƯ
Đảng CS Đông Dương, xác định cách mạng là cách mạng giải phóng dân tộc, công bố
ý tưởng thành lập nhà nước VN Dân chủ Cộng hòa, đồng thời thành lập VN Độc lập
Đồng minh (tên thường gọi là "Việt Minh"). Tên gọi Việt Minh cho thấy
mục tiêu của cách mạng VN lúc bấy giờ là đánh đổ ách thống trị của Nhật và
Pháp, giành lại độc lập, tập trung toàn lực vào cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa
đế quốc.
Hồ Chí Minh nêu lên chủ trương
của VN Độc lập Đồng minh là "liên hiệp hết thảy các tầng lớp nhân dân
không phân biệt tôn giáo, xu hướng, đảng phái chính trị nào, giai cấp nào, đoàn
kết chiến đấu để đánh đuổi Pháp, Nhật. Sẽ thành lập một chính phủ nhân dân của
VN Dân chủ Cộng hòa. Ngôi sao vàng năm cánh làm lá cờ toàn quốc".
Tuyên ngôn Độc lập
Tên nước VN Dân chủ Cộng hòa được
cho là do Hồ Chí Minh đặt. Nội dung của nó được thể hiện trong Tuyên ngôn Độc
lập tháng 9 năm 1945 và Hiến pháp năm 1946. Câu đầu tiên của bản Tuyên ngôn Độc
lập có đề cập đến Hiến pháp Mỹ và bản Tuyên ngôn Nhân quyền Pháp.
"Tất cả mọi người sinh
ra có quyền bình đẳng. Tạo hóa cho họ những quyền không ai có thể xâm phạm
được; trong những quyền ấy, có quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu
hạnh phúc"
Lời bất hủ ấy ở trong bản Tuyên
ngôn Độc lập năm 1776 của nước Mỹ. Suy rộng ra, câu ấy có nghĩa là: "Tất
cả các dân tộc trên thế giới đều sinh ra bình đẳng, dân tộc nào cũng có quyền
sống, quyền sung sướng và quyền tự do".
Tuyên ngôn Nhân quyền được viết
trong Cách mạng Pháp năm 1791 đã trình bày nội dung tương tự như sau: "Người
ta sinh ra tự do và bình đẳng về quyền lợi; và phải luôn luôn được tự do và
bình đẳng về quyền lợi. Đó là những lẽ phải không ai chối cãi được. Thế mà hơn
80 năm nay, bọn thực dân Pháp lợi dụng lá cờ tự do, bình đẳng, bác ái, đến cướp
đất nước ta, áp bức đồng bào ta. Hành động của chúng trái hẳn với nhân đạo và
chính nghĩa. Về chính trị, chúng tuyệt đối không cho nhân dân ta một chút tự do
dân chủ nào. Chúng thi hành những luật pháp dã man. Chúng lập ba chế độ khác
nhau ở Trung, Nam, Bắc để ngăn cản việc thống nhất nước nhà của ta, để ngăn cản
dân tộc ta đoàn kết. Chúng lập ra nhà tù nhiều hơn trường học. Chúng thẳng tay
chém giết những người yêu nước thương nòi của ta. Chúng tắm các cuộc khởi nghĩa
của ta trong những bể máu. Chúng ràng buộc dư luận, thi hành chính sách ngu dân.
Chúng dùng thuốc phiện, rượu cồn để làm cho nòi giống ta suy nhược. Về kinh tế,
chúng bóc lột dân ta đến xương tủy, khiến cho dân ta nghèo nàn, thiếu thốn,
nước ta xơ xác, tiêu điều. Chúng cướp không ruộng đất, hầm mỏ, nguyên liệu.
Chúng giữ độc quyền in giấy bạc, xuất cảng và nhập cảng. Chúng đặt ra hàng trăm
thứ thuế vô lý, làm cho dân ta, nhất là dân cày và dân buôn trở nên bần cùng.
Chúng không cho các nhà tư sản ta ngóc đầu lên. Chúng bóc lột công nhân ta một
cách vô cùng tàn nhẫn"... (Lược một đoạn - Tsuboi).
"Bởi thế cho nên, chúng
tôi, lâm thời Chính phủ của nước VN mới, đại biểu cho toàn dân VN, tuyên bố
thoát ly hẳn quan hệ với Pháp, xóa bỏ hết những hiệp ước mà Pháp đã ký về nước
VN, xóa bỏ tất cả mọi đặc quyền của Pháp trên đất nước VN. Toàn dân VN, trên
dưới một lòng kiên quyết chống lại âm mưu của bọn thực dân Pháp". (Trích "Tuyên ngôn Độc lập ngày 2 tháng 9 năm 1945").
Còn có một câu chuyện nữa về Hồ
Chí Minh ít được biết đến. Sau khi thành lập Việt Minh năm 1941, để kêu gọi sự
ủng hộ của các nước Đồng minh trong đó có cả Trung Quốc, Ông Hồ đã quay trở lại
Trung Quốc. Tuy nhiên, do Việt Minh nằm dưới cái bóng của chủ nghĩa CS nên Ông
Hồ đã bị Quốc dân đảng nghi ngờ.
Ông bị chính quyền địa phương
của Quốc dân đảng bắt và bị giam từ tháng 8 năm 1942 đến tháng 9 năm 1943. Sau
cùng, Quốc dân đảng nhận định rằng Việt Minh là thế lực chính trị chống Nhật
trong phạm vi VN nên Ông Hồ đã được thả. Tháng 8 năm 1944, khi được tự do và
chuẩn bị về nước, Hồ Chí Minh đã nói với tướng Trương Phát Khuê của Quốc dân
đảng như sau: "Tuy tôi là một người CS nhưng bây giờ vấn đề mà tôi
quan tâm không phải là chủ nghĩa CS mà là độc lập tự do của VN. Tôi xin hứa với
anh một lời hứa đặc biệt: Trong vòng 50 năm tới sẽ không thực hiện chủ nghĩa CS
ở VN". (trích theo Furuta Motoo).
Cách mạng Tháng 8
Tuy nhiên, không thể có được Con
người mới gánh vác được độc lập tự do chỉ bằng đấu tranh giải phóng đơn thuần.
Hồ Chí Minh biết rõ rằng, để đạt được điều đó cần một cuộc cách mạng làm đòn
bẩy. Cuộc cách mạng đó ở VN là "Cách mạng Tháng 8".
Ngày 15 tháng 8 năm 1945, Nhật
Bản đầu hàng vô điều kiện quân Đồng minh, nước Pháp bảo hộ thì chưa khôi phục
được thế lực của mình. Cách mạng Tháng 8 là cuộc khởi nghĩa trên toàn quốc do
Việt Minh tổ chức nhân cơ hội đó nhằm giành quyền tự chủ thực sự cho VN.
Nhận được tin Nhật đầu hàng, từ
ngày 13 đến ngày 15 tháng 8 năm 1945, Đảng CS đã tổ chức Hội nghị toàn quốc ở
Tân Trào, ra quyết định khởi nghĩa. Ngày 16-17/8, Việt Minh tổ chức Đại hội
Quốc dân, quyết định thành lập Chính phủ lâm thời nước VN Dân chủ Cộng hòa. Sau
đó, bắt đầu từ việc giành chính quyền ở Hà Nội ngày 19 tháng 8, Việt Minh đã
lãnh đạo thành công khởi nghĩa ở các thành thị khác, xác lập được quyền làm chủ
đất nước. Kết quả của quá trình này là sự ra đời của bản Tuyên ngôn Độc lập.
Có nhà nghiên cứu cho rằng Cách
mạng Tháng 8 không đơn thuần là một cuộc đảo chính bằng vũ lực. Đúng là khi
cách mạng nổ ra, quân Nhật, lúc đó đã đầu hàng Đồng minh, đã không tiến hành
đàn áp cuộc khởi nghĩa của Việt Minh. Đồng thời ở VN cũng không có mặt quân
Pháp và quân Đồng minh. Nhờ vậy, cuộc khởi nghĩa đã diễn ra một cách tương đối
dễ dàng và không phải đổ nhiều máu. Đối với Hồ Chí Minh, cuộc cách mạng này
chính là quá trình giành lại quyền lực của nhân dân dựa trên khát khao mạnh mẽ
về tự do của họ, nó chính là quá trình xây dựng nên Con người mới.
Ý nghĩa của Độc lập - Tự do -
Hạnh phúc
Ước mơ "Độc lập" từ
lâu của Hồ Chí Minh là VN được giải phóng khỏi tay thực dân Pháp và trở thành
một nước độc lập. Nhưng độc lập của Hồ Chí Minh không phải là khái niệm
"độc lập" theo nghĩa cũ, vốn thường được lặp đi lặp lại trong sách
giáo khoa- là quá trình VN giữ vững được độc lập và bản sắc (identity) của mình
trước sự uy hiếp của Trung Quốc.
VN có lịch sử khởi nghĩa,
đánh bại, đánh đuổi sự xâm lược của các triều đại Tống, Nguyên, Minh, Thanh của
Trung Quốc, nhưng sau mỗi lần đánh đuổi quân xâm lược Trung Quốc, VN lại chỉ
xây dựng một thể chế chính trị mô phỏng Trung Quốc. Nhưng độc lập mà Hồ
Chí Minh muốn xây dựng là một nước độc lập, một nhà nước chủ quyền theo kiểu
cận đại.
Từ độc lập của Ông bao hàm ý
nghĩa xây dựng một quốc gia chủ quyền có lực lượng sánh vai được với các cường
quốc trên thế giới. Ý tưởng của Ông là không chỉ xây dựng một chế độ Dân chủ
cộng hòa mà còn xây dựng nên hình ảnh những Con người mới đóng vai trò
gánh vác quốc gia độc lập.
"Tự do" của Hồ Chí
Minh rõ ràng chịu ảnh hưởng từ chữ "tự do" trong khẩu hiệu "Tự
do, Bình đẳng, Bác ái" của Cách mạng Pháp và quyền mưu cầu Tự do của Hợp
chủng quốc Hoa Kỳ. Tự do của Hồ Chí Minh không chỉ đơn thuần là đất nước được
độc lập, nhà nước có chủ quyền và có quyền tự do phát ngôn, hoạt động trên
trường quốc tế, mà phải là thứ tự do được từng người dân ca ngợi.
Nó cũng yêu cầu mỗi người dân
ca ngợi quyền tự do đó phải trở thành chủ thể xây dựng từ dưới lên trật
tự của nền cộng hòa, yêu cầu từng cá nhân phải có khả năng suy nghĩ, quyết định
với tinh thần trách nhiệm cao. Nhà nước kiểu cận đại chính là nhà nước được hệ
thống giáo dục đào tạo ra được những con người như vậy. Đồng thời có những
thiết chế chính trị đi kèm đảm bảo cho việc giáo dục đó. Nước Cộng hòa của Hồ
Chí Minh là Chủ nghĩa dân chủ kết hợp với Tự do.
Cuối cùng, như được đề cập trong
bản Tuyên ngôn Độc lập, hạnh phúc theo quan niệm của Hồ Chí Minh, chịu ảnh
hưởng của "quyền mưu cầu hạnh phúc" trong Hiến pháp của Hợp chủng
quốc Hoa Kỳ. Hiến pháp Hợp chủng quốc Hoa Kỳ chính là bản Hiến pháp đầu tiên
viết rõ ràng về "quyền mưu cầu hạnh phúc". Hạnh phúc là một từ có
tính đa nghĩa, nhưng ý nghĩa từng cá nhân có quyền mưu cầu Hạnh phúc là một
khái niệm hết sức mới mẻ của thời kì cận đại.
Lịch sử VN là lịch sử tranh sáng
tranh tối của những cuộc đấu tranh chống lại sự xâm lược của Trung Quốc, đấu
tranh chống lại những thảm họa thiên nhiên như lũ lụt, hạn hán. Con người VN
coi những nguy cơ đó là "bất hạnh". Đặc điểm của VN là có lịch sử
chiến đấu và chiến thắng những "bất hạnh" đó. Nếu coi những
"bất hạnh" mà dân tộc VN phải chịu đựng là những thách thức của Ông
Trời mang lại để dân tộc VN phải vượt qua thì quả thực, dân tộc VN là một dân
tộc anh hùng và quả cảm.
Thế nhưng, quá trình đó
bản chất là một quá trình mang tính thụ động. Thông điệp về Hạnh phúc của Hồ
Chí Minh là thông điệp mỗi người đều có quyền mưu cầu hạnh phúc và phải chủ
động, tích cực tranh đấu để giành được hạnh phúc đó. Thông điệp đó của Hồ Chí Minh đã được đông đảo nhân dân VN đón
nhận.
Trong bản Hiến pháp làm cơ
sở cho nhà nước, Hồ Chí Minh đã tham khảo nước Cộng hòa Pháp và Hợp chủng quốc
Hoa Kỳ, và nêu lên ý tưởng về nước VN Dân chủ Cộng hòa. Con người Hồ Chí Minh
được phản ảnh sắc nét trong Hiến pháp là một người theo chủ nghĩa cộng hòa và
chủ nghĩa hòa bình hơn là một người theo chủ nghĩa cộng sản.
Hồ Chí Minh đã đọc Tuyên ngôn
Độc lập cho nước VN Dân chủ Cộng hòa vào ngày 2 tháng 9 năm 1945. Trong vòng
xoáy tương quan lực lượng quốc tế mà VN bị lôi vào, Liên Hiệp Quốc đóng vai trò
vô cùng quan trọng. Để các nước công nhận nhà nước VN Dân chủ Cộng hòa,
Hồ Chí Minh đã có một hành động mạo hiểm là xóa đi hình ảnh người cộng sản của
mình.
Tháng 11 năm 1945, Ông Hồ đã ra
quyết định dứt khoát giải tán Đảng CS. Đương nhiên, trên thực tế, tổ chức của
Đảng vẫn được giữ nguyên, do đó cũng có thể coi nó như một hành động "ngụy
trang". Thế nhưng, để được các nước công nhận nhà nước VN Dân chủ
Cộng hòa, Ông Hồ đã lựa chọn con đường ưu tiên "quyền lợi dân tộc"
lên trên "quyền lợi đảng phái". Về điểm này, chúng ta có thể
nhìn thấy một phần cách suy nghĩ theo chủ nghĩa cộng hòa của Hồ Chí Minh.
Người VN có hiểu Hồ Chí Minh
không?
Ở đây có một vấn đề là
những người VN khác có hiểu được nguyên lý về nước VN Dân chủ Cộng hòa mà Hồ
Chí Minh đã trình bày cũng như tinh thần nền cộng hòa được đúc kết trong khẩu
hiệu "Độc lập - Tự do - Hạnh phúc" của Ông hay không? Thật tiếc phải
nói rằng thông điệp của Hồ Chí Minh hầu như không được truyền bá và lý giải một
cách đầy đủ và đúng đắn.
Người ta đã coi Ông như một
người lãnh đạo của phong trào CS quốc tế, một người theo chủ nghĩa Marx- Lenin.
Đó là vì sau Chiến tranh Thế giới II, thế giới rơi vào cục diện Chiến tranh
Lạnh, VN đã bị đặt vào tiền tuyến xung đột của chiến tranh Lạnh Đông - Tây.
Trong bối cảnh quốc tế đó, Hồ Chí Minh sau khi thành lập nước đã phải nhận sự
hỗ trợ của Trung Quốc và Liên Xô, trở thành lãnh tụ lãnh đạo một cuộc chiến
tranh lâu dài chống Pháp và Mỹ.
Ai cũng lấy ý thức hệ làm chủ
thể để lý giải Ông Hồ, và ngay bản thân Ông Hồ, để nhận được viện trợ, tiếp tục
công cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc mình, không có một sự lựa chọn nào khác
ngoài việc phát ngôn và hành động như một thành viên của liên minh những người
CS.
Thế hệ kém Ông Hồ 10 tuổi như
Đại tướng Võ Nguyên Giáp hay Ông Trần Văn Giàu, do chịu sự giám thị gay gắt của
nhà đương cục thực dân, đã phải hoạt động tại nước ngoài một thời gian. Chính
vì vậy, họ đã hiểu được tình hình bên ngoài và lý giải được một phần tinh thần
nền cộng hòa của Hồ Chí Minh. Sự lý giải của họ là nhờ vào những kinh nghiệm
sống ở các nước Âu Mỹ, chủ yếu là nước Pháp.
Tuy nhiên, đối với những
thế thệ trẻ hơn, do phải tiến hành cách mạng và chiến tranh trên đất VN, hầu
như không có mấy người có kinh nghiệm sống ở nước ngoài. Do đó, họ thiếu đi nền
tảng tư tưởng để có thể lý giải được đầy đủ "Tinh thần nền cộng hòa"
mà Hồ Chí Minh đã đúc kết được sau 30 năm bôn ba ở hải ngoại.
Càng đến những thế hệ trẻ hơn,
người ta càng có xu hướng lý giải Hồ Chí Minh chỉ theo góc độ là nhà lãnh đạo
Đảng CS. Cùng với việc thần tượng hóa Hồ Chí Minh, người ta đang đánh mất đi
khả năng lý giải nội tại Hồ Chí Minh với tư cách là một CON NGƯỜI bình thường.
No comments:
Post a Comment