31/07/2014
Từ Quốc Hoài
Tác
giả có thân sinh là đảng viên cộng sản từ năm 1930. Bản thân là đảng
viên đã nhận huy hiệu 30 tuổi Đảng. Từng qua thử thách chiến trường B,
từng là Bí thư chi bộ khu phố, được bình chọn là đảng viên xuất sắc tiêu
biểu. Là hội viên Hội Nhà văn Việt Nam, đoạt nhiều giải thưởng văn học,
trong đó có Giải thưởng Thơ 2010 của Hội Nhà Văn Việt Nam.
Bauxite Việt Nam
|
Đất
nước ta đang đối mặt với hiểm họa khôn lường. Trung Quốc lộ mặt chủ
nghĩa bành trướng, quyết liệt thôn tính lãnh thổ Việt Nam. Trong nước
ngổn ngang những thách thức: kinh tế suy thoái nghiêm trọng; dân mất
lòng tin; xã hội bất an, tội phạm tăng; Đảng và Nhà nước bị ràng buộc
bởi những tính toán tư lợi, bế tắc về mặt chiến lược, loay hoay với các giải pháp tình thế.
Để thoát khỏi hiểm họa đang làm chao đảo vận mệnh đất nước, chúng ta cần can đảm, quyết liệt tháo bỏ ách tắc, mà lâu nay vẫn được gọi là lỗi hệ thống.
Đảng Cộng sản Việt Nam theo
chủ thuyết Marx - Lenin, đổi tên từ Đảng Lao Động Việt Nam, từng lãnh
đạo dân tộc ta giành thắng lợi qua hai cuộc chiến tranh chống thực dân
Pháp và đế quốc Mỹ. Chuyện đó ai cũng biết. Điều ít ai nói tới một cách
khách quan, rành rẽ là tại sao Đảng Lao Động Việt Nam thành công vẻ vang
trong lãnh đạo chiến tranh trước đây, nhưng khi đổi tên thành Đảng Cộng
sản lại thất bại thê thảm trong thời bình, vô hình trung tạo điều kiện
cho Trung Quốc thực thi chủ nghĩa bành trướng. Chắc chắn là chủ nghĩa
Marx - Lenin có vấn đề. Cái mà nhiều người vẫn gọi là lỗi hệ thống, chính là mặt trái của chủ nghĩa Marx - Lenin, khi Đảng cầm quyền mới bộc lộ, phát tác độc hại, trở thành đại họa. Nếu không nhìn ra mặt trái
của chủ nghĩa Marx - Lenin để xử lý nó một cách quyết liệt, thì dân tộc
Việt Nam sẽ đối mặt với nguy biến khôn lường. Cũng cần phải xem lại bản
chất Tư tưởng Hồ Chí Minh là gì? Liệu còn có ích cho dân tộc Việt Nam
hay không?
Phần I
Mặt trái của chủ nghĩa Marx - Lenin
Ông tổ của chủ nghĩa Cộng sản là Platon (427-347 trước công nguyên) ra đời trước K. Marx 2245 năm. Trong tác phẩm Cộng hòa, lần đầu tiên Platon đưa ra chủ thuyết về xã hội Cộng sản, một xã hội mà bản thể tư hữu của con người hoàn toàn bị xóa bỏ, mọi tài sản kể cả vợ chồng con cái đều thuộc về sở hữu công cộng. Chủ thuyết của Platon được cụ thể hóa trong cuốn tiểu thuyết giả tưởng Utopia
của nhà văn Thomas More (1478 – 1535 ). Chủ nghĩa Cộng sản của Platon
mang tính cực đoan và ảo tưởng vì con người không bao giờ chịu từ bỏ cái
bản thể tư hữu của mình, một hành vi đồng nghĩa với sự diệt vong.
K. Marx (1818 – 1883) tiếp thu ý tưởng về Chủ nghĩa Cộng sản của Platon, nhưng chỉ giới hạn ở việc xóa bỏ sự tư hữu về tư liệu sản xuất
vì cho rằng đấy là khâu then chốt đưa tới cảnh người bóc lột người.
Marx chủ trương giai cấp bị bóc lột dùng bạo lực cách mạng lật đổ trật
tự xã hội tư bản hiện hành, quốc hữu hóa toàn bộ tài sản của giai cấp tư
bản bao gồm tư liệu sản xuất và các tài sản do bóc lột lao động tạo ra,
thiết lập Nhà nước chuyên chính vô sản… Chủ nghĩa Marx mang lại cho
nhân dân lao động và các dân tộc bị áp bức hào quang của một thiên
đường. Đó là xã hội cộng sản chủ nghĩa không có người bóc lột người, nền
kinh tế phát triển tột bậc, con người được tôn trọng, phát triển mọi
mặt, làm tùy sức hưởng theo nhu cầu. Không còn áp bức, chiến tranh...
loài người chung sống trong một thế giới đại đồng. Tác giả của Tuyên ngôn Đảng Cộng sản khẳng định: Trong cuộc cách mạng ấy, những người vô sản chẳng mất gì ngoài những xích xiềng trói buộc họ. Họ sẽ giành được cả thế giới.
Tuyên ngôn Đảng Cộng sản có tầm ảnh hưởng lớn đối với tiến trình phát triển của lịch sử loài người.
Dù sao thì xã hội Cộng sản do Chủ nghĩa Marx vẽ ra vẫn còn là một thế giới ảo. Nó là một giấc mơ đẹp, nhưng cần được minh định bằng một đời sống thực, con người có thể nhìn thấy được, chạm tay vào được.
V. Lênin (1870 -1924): người sáng lập Quốc tế Cộng sản 3, lãnh đạo Đảng Bônsêvích Nga giành thắng lợi trong cuộc cách mạng vô sản đầu tiên của loài người với tham vọng biến giấc mơ của Marx thành hiện thực. Sự ra đời của Liên bang Xô viết rộng lớn, trải dài từ Âu sang Á,
đã tạo ngã rẽ quan trọng của lịch sử loài người. Hơn 20 năm sau ngày ra
đời, Liên bang Xô viết trở thành một quốc gia hùng mạnh, cùng với các
nước đồng minh đánh bại Phát xít Đức, giải phóng châu Âu. Lá cờ búa liềm
– biểu tượng của chủ nghĩa cộng sản – ngự trị trên hàng loạt các nước
Đông Âu. Năm 1949, bốn năm sau ngày chiến thắng Phát xít Đức, Đảng Cộng
sản Trung Quốc giành thắng lợi trong cuộc nội chiến, giải phóng lục địa
Trung Hoa. Sự ra đời của nước Cộng hòa Nhân Dân Trung Hoa với gần một tỷ
dân thực sự đã chia thế giới làm hai phe: phe Cộng sản và phe Tư bản.
Một
sự kiện đầy khích lệ diễn ra vào đầu những năm 80 của thế kỷ 20, đó là
việc Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Liên Xô L. Brezhnev tuyên bố Liên bang Xô
viết hoàn thành công cuộc xây dựng xã hội chủ nghĩa, và đang ở vào thời
kỳ đầu của xã hội Cộng sản chủ nghĩa. Liên Xô trở thành miền đất hứa
để loài người kỳ vọng. Những người lạc quan đã nghĩ tới ngày ngọn cờ đỏ
búa liềm của Đảng Cộng sản sẽ ngự trị trên toàn thế giới, xóa bỏ chủ
nghĩa tư bản thối nát, giãy chết.
Nhưng chỉ 10 năm sau, cái thành trì của phe Cộng sản đã sụp đổ. Giới cầm quyền tại Liên Xô đối đầu
với nhau bằng họng súng đại bác. Liên bang Xô viết tan rã. Đảng Cộng
sản Liên Xô chịu chung số phận. Kéo theo sự sụp đổ của chủ nghĩa xã hội ở
Liên Xô là sự sụp đổ, tan rã của hệ thống các nước xã hội chủ nghĩa
Đông Âu. Các nước Cộng sản châu Á như Trung Quốc, Việt Nam… mỗi nước mỗi
cách nhưng đều buộc phải bước ra khỏi lằn ranh của chủ nghĩa xã hội, khoác lên mình bộ trang phục mới của nền kinh tế thị trường để tồn tại.
Mặt trái của Chủ nghĩa Cộng sản
Sự
sụp đổ của Liên bang Xô viết và hệ thống xã hội chủ nghĩa làm cho những
ai quan tâm tới thời cuộc không thể không nghiêm túc đặt câu hỏi: Phải
chăng sự sụp đổ mang tầm thế giới kia có nguyên nhân sâu xa từ mặt trái của chủ thuyết Marx-Lênin, vẫn được gọi là lỗi hệ thống?
Loài người từ khi xuất hiện trên trái đất luôn phải đối mặt với hai vấn đề: sinh tồn và bảo tồn nòi giống. Đấy là hai thành tố tạo nên bản thể tư hữu ở con người. Loại bỏ cái bản thể tư hữu ở con người cũng đồng nghĩa loại bỏ sự tồn tại của bản thân con người. Nhưng chính cái bản thể tư hữu lại làm cho xã hội loài người luôn bất an. Quá trình con người lao động để sinh tồn
luôn xảy ra sự phân cực. Một bộ phận thành đạt vượt trội, trở thành
những ông chủ quyền thế. Một bộ phận khác chịu số phận ngược lại, bần
cùng, cuộc sống bị lệ thuộc vào những ông chủ quyền thế. Sự phân cực
ngày càng nghiệt ngã, sự đối kháng càng gay gắt.
Yếu
tố nhân đạo và cách mạng hướng về người lao động bị bóc lột trong Chủ
nghĩa Marx có sức quyến rũ, lôi cuốn hàng tỷ người khắp thế giới tiến
bước dưới ngọn cờ đỏ búa liềm của Đảng Cộng sản.
Nhưng
đấy chỉ mới là một nửa chủ nghĩa Marx. Một nửa còn lại khó nhận biết
ngay, đó là sự ảo tưởng về một xã hội công bằng và hiểm họa độc tài.
Nhân danh công lý, Marx - Lenin chủ trương xóa bỏ của tư hữu bằng
cách quốc hữu hóa tài sản của giai cấp tư bản cùng lúc với việc cướp
chính quyền. Nhưng liệu đó có phải giải pháp công bằng? Thực chất của
việc quốc hữu hóa là tước đoạt tài sản của giai cấp tư bản, một hành vi
dẫn tới sự bất công mới. Giai cấp tư bản trả lương rẻ mạt cho công nhân, tạo ra sự chênh lệch giữa đồng lương người công nhân đáng được hưởng so với đồng lương rẻ mạt
mà họ buộc phải nhận. Nhưng sự chênh lệch đó không thể lớn bằng toàn bộ
tài sản của giai cấp tư bản tích tụ hàng trăm năm, bị chính quyền Cộng
sản tước đoạt. Ngay từ điểm xuất phát, cuộc tính sổ nhân danh giai cấp vô sản bị áp bức, đã diễn ra trong bạo lực đẫm máu, không sòng phẳng, là vết đen in lên cuộc cách mạng nhân danh công lý.
Khối
tài sản khổng lồ: nhà máy, hầm mỏ, ngân hàng… tước đoạt của giai cấp tư
sản, và những xí nghiệp, tổng công ty, tập đoàn kinh tế được mọc lên từ
tiền thuế đẫm mồ hôi của người dân… được chính quyền Cộng sản giao cho
các đại diện ưu tú của giai cấp vô sản quản lý. Những người này
ban đầu có thể là những người lương thiện. Nhưng khi có quyền lực trong
tay, sự quyến rũ của đồng tiền đánh thức bản thể tư hữu trong họ, dần dà biến họ thành những tội đồ. Thánh Đường công hữu,
mở ra vô số cánh cửa từ phường xã tới trung ương, càng lên cao các cánh
cửa mở càng rộng, thậm chí vô giới hạn, dành cho các quan tham nhũng.
Lênin gọi đám quan vô lại này là “những ngôi sao trong nghề ăn cắp của công”. Nhưng chính Lênin cũng bất lực.
Chủ nghĩa Cộng sản bạo liệt xóa kiểu tư hữu này, nhưng lại tạo ra kiểu tư hữu khác, không chính danh, phát tác độc hại khủng khiếp. Các đảng viên cộng sản tràn đầy hy vọng khi hát bài Quốc tế ca, trong đó có câu “Bao nhiêu lợi quyền ắt qua tay mình”. Rốt cục “bao nhiêu lợi quyền” về tay các đảng viên, hay chỉ về tay những ai có chức có quyền, những nhóm lợi ích, lợi lộc bẩn thỉu tỷ lệ thuận với quyền chức. Nền chuyên chính vô sản khoác chiếc áo chính quyền của nhân dân, giữ độc quyền chân lý,
không chấp nhận sự phản biện, đối lập. Ai phê phán các sai trái của
quan chức trong bộ máy công quyền, hoặc đường lối không phù hợp với lợi
ích đất nước… bị khép vào tội lợi dụng quyền tự do dân chủ bôi xấu lãnh
đạo, hoặc chống lại chính quyền của nhân dân. Không cho phép tồn
tại các cơ quan lập pháp, tư pháp độc lập, không cho phép có đảng đối
lập, không được tự do báo chí, không có những quyền tự do được ghi trong
hiến pháp… quyết liệt chống lại mọi cơ chế kiểm soát quyền lực,
Đảng Cộng sản và Nhà nước chuyên chính độc quyền thử nghiệm số phận của
hàng tỷ con người. Cuộc thử nghiệm tai hại này đã thất bại trên phạm vi
toàn thế giới.
Những sự việc xảy ra tại Liên
bang xô viết, một đất nước xã hội chủ nghĩa điển hình, chứng minh sự sụp
đổ của Nhà nước cộng sản là tất yếu. Từ 1921-1953 có 4.060.306 người
dân bị kết tội chống Chính quyền Xô viết, trong đó có 2.634.397 người bị
cầm tù, gần 800.000 người bị xử bắn. Chỉ riêng trong hai năm 1937-1938
là những năm có cuộc đấu tranh quyết liệt về đường lối chính trị, số
người bị bắn là 681.692 người. Bản thân N. Khrushev người lớn tiếng qui
tội Stalin độc tài, khi còn là Bí thư Matxcơva đã xin bắn 8.500
người. Việc xử bắn nhiều khi là theo chỉ tiêu, không ghi danh tính người
bị tử hình. Khi chỉ tiêu được thông qua, bắn ai là do thủ lĩnh các địa
phương quyết định. Những con số trên đây là kết quả điều tra từ số liệu
tại các kho lưu trữ của Đảng và Nhà nước Xô viết do một nhóm công tác
đặc biệt đứng đầu là tiến sĩ sử học Viktor Nikolaevich Zemskov tiến
hành.
Trong cuộc thăm dò không lâu trước khi
Liên Xô sụp đổ, với câu hỏi Đảng Cộng sản Liên Xô và Nhà nước Xô viết
đại diện cho ai, 85% người được hỏi trả lời: Chế độ Xô viết chỉ đại diện
cho lợi ích các quan chức của Đảng và Nhà nước, 11% đại diện cho các
đảng viên cộng sản, 4% đại diện cho giai cấp công nhân. Sau khi Liên Xô
sụp đổ, con số thống kê cho thấy số người giàu của nước Nga chiếm trên
90% là các quan chức của chế độ cộng sản. Nhà tài phiệt Khodorkovsky,
ông chủ tập đoàn dầu hỏa Yukos, một trong những người giàu nhất nước Nga
với tài sản khoảng 15 tỷ USD, bắt đầu sự nghiệp từ một đảng viên cộng
sản. Khi Tổng Bí thư Đảng Liên Xô Brezhnev tuyên bố Liên bang Xô viết
đang bước vào thời kỳ đầu của chủ nghĩa Cộng sản, cả con gái lẫn con rể
là những đại gia bị cáo buộc tham nhũng. Cái bóng quyền lực của Tổng Bí
thư Brezhnev đã đè lên luật pháp. Vụ án chìm xuồng.
Tại
Việt Nam, sau gần 100 năm bị nô dịch bởi các thế lực thực dân, phát
xít, nền độc lập đã được tạo dựng từ cuộc Tổng khởi nghĩa tháng 8/1945,
sau đó là chiến thắng vang đội trong cuộc kháng chiến chống Pháp rồi
chống Mỹ đã đưa uy tín của Đảng Lao động Việt Nam lên tột đỉnh vinh
quang.
Lẽ ra sau ngày toàn thắng, Tổ quốc được
độc lập thống nhất, Việt Nam bắt tay vào việc chấn hưng đất nước với một
thể chế dân chủ đã được Hồ Chí Minh đặt nền móng từ năm 1945, thể hiện
trong Tuyên ngôn Độc lập, trong Chính phủ Đoàn kết dân tộc và Hiến pháp dân chủ 1946.
Nếu đi theo hướng đó, Việt Nam hôm nay đã là một đất nước cường thịnh,
Trung Quốc dẫu muốn bành trướng cũng khó bề bắt nạt. Vào thời khắc mang
tính quyết định đối với vận mệnh của đất nước, Nhà cầm quyền đã vội vã
làm cuộc chia tay với Dân tộc để đi vào cuộc phiêu lưu với rất nhiều
hiểm họa đang chờ. Đó là đổi tên Đảng Lao động Việt Nam thành Đảng Cộng
sản Việt Nam, đổi tên Nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa thành Nước Cộng hòa
Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam. Cuộc phiêu lưu thể chế đã làm xáo
trộn đến tận nơi sâu thẳm của tinh thần dân tộc. Nhà cầm quyền nhân danh
chủ nghĩa Cộng sản đã lấy đi lòng tin, niềm kiêu hãnh của những người
dân từng viết nên những trang sử oanh liệt của Dân tộc, đẩy họ trở lại
thân phận của những con người bị đè nén, bị điều khiển, tạo dựng một
cuộc sống đầy tai ách, một tương lai không phải dành cho mình mà cho
người khác. Trong cuộc sống đó Tham nhũng là gương mặt quen
thuộc, bắt gặp hầu như ở mọi cơ quan công quyền. Đảng độc quyền cùng với
chủ nghĩa xã hội là cơ chế sản sinh ra các quan tham nhũng.
Với việc giao quyền quyết định sở hữu nhà đất cho quận huyện, nhà cầm quyền Cộng sản đã tạo những nhóm lợi ích bẩn từ phường xã lên tới Trung ương. Đất đai trở thành mỏ vàng cho các quan tham đục khoét. Vô số kho báu
khác của đất nước được trao chìa khóa cho các quan chức, hoặc đám con
ông cháu cha. Hệ thống lập pháp và tư pháp hoạt động theo lệnh của Đảng
trở thành hậu phương an toàn của các quan tham. Những đại án phải ra trước vành móng ngựa là do phạm pháp quá lộ liễu hoặc mâu thuẫn giữa các nhóm lợi ích bẩn.
Bức tranh kinh tế ảm đạm, đen tối với dư nợ hàng triệu tỷ đồng, nợ xấu
hàng trăm nghìn tỷ, tham nhũng chục hàng nghìn tỷ, hàng trăm nghìn công
ty, tổng công ty phá sản… tạo sức ép ngộp thở lên đời sống người dân,
khung đạo đức của xã hội bị xô lệch, lòng tin ở Đảng, Nhà nước chỉ còn
được tô vẽ trên các khẩu hiệu…
Trách nhiệm thuộc về ai?
Đảng
Cộng sản tự nhận mình là người lãnh đạo, tổ chức mọi thắng lợi của cách
mạng Việt Nam. Hiển nhiên việc đẩy nền kinh tế của đất nước tới hiểm
họa, tội phạm lộng hành, xã hội đảo điên… thuộc về trách nhiệm của Đảng.
Cụ thể là thuộc về Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị và Tổng Bí
thư Đảng, là địa chỉ xuất phát và nơi toàn quyền quyền điều hành đường
lối, chính sách của Đảng. Sự nhận lãnh trách nhiệm của các ông chủ Nhà đỏ,
cụ thể là Bộ Chính trị và Ban Chấp hành Trung ương, được coi là thiếu
tự trọng: không án phạt, không một hình thức kỷ luật, không một lời xin
lỗi dân, phủi tay trước sự đảo điên của đời sống đất nước do chính họ gây ra.
Với
cái nhìn thật khách quan, tất sẽ nhận ra sự sụp đổ của hệ thống xã hội
chủ nghĩa cũng như những độc tố đang khuynh đảo vận mệnh của Đất Nước có
gốc rễ từ lỗi hệ thống, là những mảng tối nằm trong mặt trái của chủ nghĩa Marx - Lenin.
Không thể xóa bỏ bản thể tư hữu, cái thuộc tính đem lại sự tồn tại của chính con người. Nhưng nó cần có cơ chế kiểm soát.
Một cây làm chẳng nên non!
Đấy
là triết học của cha ông, chân lý tạo nên sức mạnh để dân tộc ta tồn
tại và phát triển qua hàng ngàn năm. Các nhà lãnh đạo đất nước hôm nay
cần nghiêm khắc nhớ tới chân lý này. Không có sức mạnh của hàng triệu
quần chúng yêu nước, không có các nước Đồng minh hy sinh hàng chục triệu
sinh mạng để chiến thắng chủ nghĩa Phát xít, một mình Đảng Cộng sản
liệu có làm nên cuộc Tổng khởi nghĩa năm 1945, giành độc lập cho dân
tộc? Trong cuộc trường kỳ kháng chiến suốt 30 năm, đánh Pháp rồi đánh
Mỹ, nếu không có sự hy sinh xương máu của hàng triệu đồng bào, chiến sĩ,
sự viện trợ, ủng hộ lớn lao loài người tiến bộ, liệu sự nghiệp giành
độc lập cho Tổ quốc có kết thúc thắng lợi vào năm 1975?
Một chân lý nữa cũng cần được làm sáng tỏ:
Ba cây chụm lại thành hòn núi cao.
Muốn bảo đảm sự bền vững và phát triển thì phải cần tới chân lý “ba cây chụm lại thành hòn núi cao”. Đây là di sản quí báu về triết học và tư tưởng của dân tộc ta, là chân lý mang tính phổ quát, có thể suy rộng ra để áp dụng trong đời sống của đất nước. Nó là tính đa nguyên mà dân tộc ta đã đúc kết qua hàng ngàn năm. Nhưng Đảng Cộng sản đã quyết liệt chống lại, coi đa nguyên là luận diệu của các thế lực thù địch…
Một Đảng tự nhận mình đại diện cho lợi ích của dân tộc nhưng hằn học
chống lại những giá trị tư tưởng, văn hóa… của dân tộc thì cần nghiêm
túc đặt câu hỏi: Thực chất Đảng Cộng sản hiện nay đại diện cho ai?
Hiện
nay sức mạnh mà cuộc đấu tranh giành độc lập tạo ra đã thay đổi. Liên
Xô sụp đổ. Sự ủng hộ của nhân dân thế giới cũng thay đổi. Trung Quốc
được coi là một trong những nước viện trợ lớn nhất cho ta đánh Pháp và
đánh Mỹ, tự lột mặt nạ hiện nguyên hình chủ nghĩa bá quyền Đại Hán, coi
Việt Nam là phên dậu của họ. Vào ngày 28.4.1975, khi quân Giải
phóng sắp tiến vào Sài Gòn, nhà cầm quyền Trung Quốc đã thông qua tướng
tình báo Pháp Francois Vanussème nói thẳng với Dương Văn Minh là Trung
Quốc sẵn sàng can thiệp quân sự, chỉ cần Tổng thống Việt Nam Cộng hòa
yêu cầu. Dương Văn Minh từ chối bằng câu trả lời dứt khoát: “Tôi cảm
ơn thiện chí của ông, nhưng trong đời tôi, tôi đã từng làm tay sai cho
Pháp, rồi tay sai cho Mỹ, đã quá đủ rồi. Tôi không thể tiếp tục làm tay
sai cho Trung Quốc” (xem Sự kiện 30 tháng 4 năm 1975).
Những sự việc nhỡn tiền
diễn ra ở biên giới Tây Nam sau 1975, ở biên giới phía Bắc 1979, ở Biển
Đông từ 1956 đến nay hết xua quân chiếm các đảo của hai quần đảo Hoàng
Sa và Trường Sa tới việc ngang nhiên hạ đặt trái phép giàn khoan HD. 981
trên thềm lục địa Việt Nam… càng phơi bày dã tâm bành trướng của Trung
Quốc. Nhà cầm quyền Trung Quốc đã từ bỏ chủ thuyết Marx - Lenin với lời
tuyên bố của Đặng Tiểu Bình: “Mèo trắng mèo đen đều tốt miễn là bắt được chuột”.
Đảng Cộng sản Trung Quốc đang đi theo Chủ nghĩa dân tộc bành trướng Đại
Hán. Họ giữ lại hai chữ Cộng sản là để nắm sự độc quyền. Phương thức
sản xuất của Trung Quốc pha trộn giữa chủ nghĩa tư bản man khai và chủ
nghĩa tư bản hiện đại. Sự độc quyền đã tước mất của dân tộc Trung Hoa nền dân chủ và tạo nên vô số phe nhóm lợi ích bẩn. Nhưng tập đoàn cầm quyền Trung Quốc có tham vọng bá chủ thế giới. Đó là động lực đen, thúc đẩy Trung Quốc phát triển.
Đảng
Cộng sản Việt Nam với những chính sách sai lầm về kinh tế, cách hành xử
chuyên quyền, và nhu nhược trước sự bành trướng của Trung Quốc đang
ngày một bị đẩy xa dân. Cùng tên gọi là Đảng Cộng sản nhưng giữa hai
Đảng cầm quyền Trung Quốc và Việt Nam không thể gọi là chung ý thức hệ.
Có chăng chỉ giống nhau ở sự độc tài. Khác hẳn với Đảng cầm quyền
Trung Quốc, nhà cầm quyền Việt Nam hiện nay ngoài những toan tính tư
lợi không hề có khát vọng vì dân, vì nền độc lập của Đất Nước, trở thành
một cường quốc ở Đông Nam Á hoặc châu Á. Nếu có đã không xảy ra thực
trạng đau lòng đang phơi bày.
Đi với dân để có sức mạnh của dân tộc thì phải thực thi một chế độ dân chủ thật sự, chế độ đó ngoài việc bảo đảm cho mỗi người dân quyền bình đẳng được sống, quyền tự do, quyền mưu cầu hạnh phúc, còn phải có cơ chế kiểm soát quyền lực,
đó là các quyền tự do báo chí, ngôn luận, tổ chức hội đoàn, đảng phái
cùngvới cơ chế Tam quyền phân lập đang được áp dụng có hiệu quả tại các
xã hội văn minh trên thế giới.
Dân chủ sẽ thực sự là thứ quyền lực trói chân trói tay các quan tham. Còn nếu cứ thực thi mô hình dân chủ hình thức, giả hiệu, nói một đằng làm một nẻo như hiện nay, khoác lên Đảng Cộng sản và Nhà nước những chiếc áo đẹp mã: “Đảng không có quyền lợi nào ngoài việc phụng sự tổ quốc, phục vụ nhân dân”, “Nhà nước của dân, do dân, vì dân”, thì dân vẫn ngoảnh mặt, trò ảo thuật đã bị lộ sáng, và vận mệnh cả Dân tộc tiếp tục bị chao đảo, nguy biến.
Để kết thúc phần nói về mặt trái của chủ nghĩa Marx - Lenin, chúng tôi xin lấy lại lời của F. Engels, người đồng chí của K. Marx, và là đồng tác giả của Tuyên ngôn Đảng Cộng sản (ra đời 1848). Như một di chúc, ba tháng trước khi từ trần, ngày 6.3.1895, trong lời nói đầu của cuốn Đấu tranh giai cấp ở Pháp, F. Engels viết: “Lịch
sử chứng tỏ chúng ta từng mắc sai lầm. Quan điểm của chúng tôi hồi đó
là ảo tưởng. Phương pháp đấu tranh năm 1848 nay đã lỗi thời về mọi
mặt...”.
Những điều chúng tôi trình bày trên đây là sự thật.
Sức mạnh của người cách mạng là dám nhìn thẳng vào sự thật.
T. Q. H.
Tác giả gửi BVN.
No comments:
Post a Comment