Coppy ngominh | 19 Aug, 2014, 08:09
Nhà thơ Hữu Loan sinh ngày 2 tháng 4 năm 1916 mất ngày 18 tháng 3 năm 2010.
Ông ra đi thanh nhàng nhẹ nhõm và mãn nguyện như vừa chở xong một
chuyến xe đá giữa bà con xóm giềng. Những người như ông không bao giờ
coi cái chết là trút xong một món nợ đời, mà chính là bước sang một thế
giới khác sinh sinh, hóa hóa vô thường. Thế hệ đời sau nhớ mãi một nhà
thơ chiến sĩ, nhớ mãi thi nhân chở đá xây đời.
Ông có một cuốn tự thuật kể lại cuộc đời mình vô cùng cảm động . Đặc
biệt là đoạn viết về hai người vợ của mình trong đó người vợ đầu và bài
thơ MÀU TÍM HOA SIM nổi tiếng.
Nàng có ba người anh
Đi bộ đội
Những em nàng còn chưa biết nói
Khi tóc nàng xanh xanh.
Tôi là người chiến binh
Xa gia đình Yêu nàng như tình yêu em gái Ngày hợp hôn nàng không đòi may áo cưới, Tôi mặc đồ quân nhân Đôi giày đinh bết bùn đất hành quân, Nàng cười xinh xinh Bên anh chồng độc đáo. Tôi ở đơn vị về Cưới nhau xong là đi!
Từ chiến khu xa
Nhớ về ái ngại Lấy chồng đời chiến chinh Mấy người đi trở lại Lỡ khi mình không về Thì thương người vợ chờ Bé bỏng chiều quê ... Nhưng không chết người trai khói lửa Mà chết người gái nhỏ hậu phương Tôi về không gặp nàng Má tôi ngồi bên mộ con Đầy bóng tối Chiếc bình hoa ngày cưới Thành bình hương Tàn lạnh vây quanh ... Tóc nàng xanh xanh Ngắn chưa đầy búi Em ơi! Giây phút cuối Không được nghe nhau nói Không được trông thấy nhau một lần. Ngày xưa nàng yêu hoa sim tím áo nàng màu tím hoa sim Ngày xưa một mình đèn khuya bóng nhỏ Nàng vá cho chồng tấm áo ngày xưa... Một chiều rừng mưa Ba người anh Trên chiến trường Đông Bắc, Biết tin em gái mất Trước tin em lấy chồng. Gió sớm thu về Rờn rợn nước sông Đứa em nhỏ lớn lên Ngỡ ngàng nhìn ảnh chị Khi gió thu về Cỏ vàng chân mộ chí. Chiều hành quân Qua những đồi sim .. Những đồi hoa sim ..., Những đồi hoa sim dài trong chiều không hết Màu tím hoa sim Tím cả chiều hoang biền biệt Nhìn áo rách vai Tôi hát trong màu hoa. Áo tôi sứt chỉ đường tà, Vợ tôi chết sớm mẹ già chưa khâu
Hữu Loan
|
Đây là những dòng tự thuật của chính nhà thơ Hữu Loan:"Tôi sinh ra trong một gia đình nghèo, hồi nhỏ không có cơ may cắp sách đến trường như bọn trẻ cùng trang lứa, chỉ được cha dạy cho dăm chữ bữa có bữa không ở nhà. Cha tôi tuy là tá điền nhưng tư chất lại thông minh hơn người. Lên trung học, theo ban thành chung tôi cũng học tại Thanh Hóa, không có tiền ra Huế hoặc Hà Nội học.
Đến
năm 1938 – lúc đó tôi cũng đã 22 tuổi – Tôi ra Hà Nội thi tú tài, để
chứng tỏ rằng con nhà nghèo cũng thi đỗ đạt như ai. Tuyệt nhiên tôi
không có ý định dấn thân vào chốn quan trường. Ai cũng biết thi tú tài
thời Pháp rất khó khăn. Số người đậu trong kỳ thi đó rất hiếm, hiếm đến
nỗi 5-6 chục năm sau những người cùng thời còn nhớ tên những người đậu
khóa ấy, trong đó có Nguyễn Đình Thi , Hồ Trọng Gin, Trịnh Văn Xuấn, Đỗ
Thiện và…tôi – Nguyễn Hữu Loan.Với
mảnh tú tài Tây trong tay, tôi rời quê nhà lên Thanh Hóa để dạy học.
Nhãn mác con nhà nghèo học giỏi của tôi được bà tham Kỳ chú ý, mời về
nhà dạy cho hai cậu con trai. Tên thật của bà tham Kỳ là Đái Thị Ngọc
Chất, bà là vợ của của ông Lê Đỗ Kỳ, tổng thanh tra canh nông Đông
Dương, sau này đắc cử dân biểu quốc hội khóa đầu tiên.
Ở
Thanh Hóa, bà tham Kỳ có một cửa hàng bán vải và sách báo, tôi thường
ghé lại xem và mua sách, nhờ vậy mới được bà để mắt tới. Bà tham Kỳ là
một người hiền lành, tốt bụng, đối xử với tôi rất tốt, coi tôi chẳng
khác như người nhà.Nhớ ngày đầu
tiên tôi khoác áo gia sư, bà gọi mãi đứa con gái – lúc đó mới 8 tuổi -
mới chịu lỏn lẻn bước ra khoanh tay, miệng lí nhí: ” Em chào thầy ạ!”
Chào xong, cô bé bất ngờ mở to đôi mắt nhìn thẳng vào tôi. Đôi mắt to,
đen láy, tròn xoe như có ánh chớp ấy đã hằn sâu vào tâm trí tôi, theo
tôi suốt cả cuộc đời.Thế là tôi
dạy em đọc, dạy viết. Tên em là Lê Đỗ Thị Ninh, cha làm thanh tra nông
lâm ở Sài Gòn nên sinh em trong ấy, quen gọi mẹ bằng má. Em thật thông
minh, dạy đâu hiểu đấy nhưng ít nói và mỗi khi mở miệng thì cứ y như một
“bà cụ non”.
Đặc
biệt em chăm sóc tôi hằng ngày một cách kín đáo: em đặt vào góc mâm cơm
chỗ tôi ngồi ăn cơm lúc thì vài quả ớt đỏ au, lúc thì quả chanh mọng
nước em vừa hái ở vườn, những buổi trưa hè, nhằm lúc tôi ngủ trưa, em
lén lấy áo sơ mi trắng tôi treo ở góc nhà mang ra giếng giặt …..
Có
lần tôi kể chuyện ”bà cụ non” ít nói cho hai người anh của em Ninh
nghe, không ngờ chuyện đến tai em, thế là em giận! Suốt một tuần liền,
em nằm lì trong buồng trong, không chịu học hành… Một hôm bà tham Kỳ dẫn
tôi vào phòng nơi em đang nằm thiếp đi. Hôm ấy tôi đã nói gì, tôi không
nhớ nữa, chỉ nhớ là tôi đã nói rất nhiều, đã kể chuyện em nghe, rồi tôi
đọc thơ…
Trưa
hôm ấy, em ngồi dậy ăn một bát to cháo gà và bước ra khỏi căn buồng.
Chiều hôm sau, em nằng nặc đòi tôi đưa lên khu rừng thông. Cả nhà không
ai đồng ý: “Mới ốm dậy còn yếu lắm, không đi được đâu” Em không chịu
nhất định đòi đi cho bằng được. Sợ em lại dỗi nên tôi đánh bạo xin phép
ông bà tham Kỳ đưa em lên núi chơi …..
Xe kéo chừng một giờ mới tới được chân đồi. Em leo đồi nhanh như một con sóc, tôi đuổi theo muốn đứt hơi. Lên đến đỉnh đồi, em ngồi xuống và bảo tôi ngồi xuống bên em.Chúng tôi ngồi thế một hồi lâu, chẳng nói gì.Bất chợt em nhìn tôi, rồi ngước mắt nhìn ra tận chân trời, không biết lúc đó em nghĩ gì. Bất chợt em hỏi tôi:- Thầy có thích ăn sim không ?- Tôi nhìn xuống sườn đồi: tím ngắt một màu sim. Em đứng lên đi xuống sườn đồi, còn tôi vì mệt quá nên nằm thiếp đi trên thảm cỏ …
Khi
tôi tỉnh dậy, em đã ngồi bên tôi với chiếc nón đầy ắp sim. Những quả
sim đen láy chín mọng.- Thầy ăn đi. Tôi cầm quả sim từ tay em đưa lên
miệng trầm trồ: Ngọt quá!Như đã
nói, tôi sinh ra trong một gia đình nông dân, quả sim đối với tôi chẳng
lạ lẫm gì, nhưng thú thật tôi chưa bao giờ ăn những quả sim ngọt đến
thế!
Cứ
thế, chúng tôi ăn hết qủa này đến qủa khác. Tôi nhìn em, em cười. Hai
hàm răng em đỏ tím, đôi môi em cũng đỏ tím, hai bên má thì….tím đỏ một
màu sim. Tôi cười phá lên, em cũng cười theo!Cuối mùa đông năm ấy, bất chấp những lời can ngăn, hứa hẹn can thiệp của ông bà tham Kỳ, tôi lên đường theo kháng chiến.Hôm
tiễn tôi, em theo mãi ra tận đầu làng và lặng lẽ đứng nhìn theo. Tôi
đi… lên tới bờ đê, nhìn xuống đầu làng ,em vẫn đứng đó nhỏ bé và mong
manh. Em giơ bàn tay nhỏ xíu như chiếc lá sim ra vẫy tôi. Tôi vẫy trả và
lầm lũi đi…Tôi quay đầu nhìn lại… em vẫn đứng yên đó … Tôi lại đi và
nhìn lại đến khi không còn nhìn thấy em nữa.Những
năm tháng ở chiến khu, thỉnh thoảng tôi vẫn được tin tức từ quê lên,
cho biết em vẫn khỏe và đã khôn lớn. Sau này, nghe bạn bè kể lại, khi em
mới 15 tuổi đã có nhiều chàng trai đên ngỏ lời cầu hôn nhưng em cứ trốn
trong buồng, không chịu ra tiếp ai bao giờ …
Chín
năm sau, tôi trở lại nhà…Về Nông Cống tìm em. Hôm gặp em ở đầu làng,
tôi hỏi em, hỏi rất nhiều, nhưng em không nói gì, chỉ bẽn lẽn lắc hoặc
gật đầu. Em giờ đây không còn cô học trò Ninh bướng bỉnh nữa rồi.Em
đã gần 17 tuổi, đã là một cô gái xinh đẹp… Yêu nhau lắm nhưng tôi vẫn
lo sợ vì hai gia đình không môn đăng hộ đối một chút nào. Mãi sau này
mới biết việc hợp hôn của chúng tôi thành công là do bố mẹ em ngấm ngầm
”soạn kịch bản”.
Một
tuần sau đó chúng tôi kết hôn. Tôi bàn việc may áo cưới thì em gạt đi,
không đòi may áo cưới trong ngày hợp hôn, bảo rằng là: ”yêu nhau, thương
nhau cốt là cái tâm và cái tình bền chặt là hơn cả”.
Tôi
cao ráo, học giỏi, Làm thơ hay…lại đẹp trai nên em thường gọi đùa là
anh chồng độc đáo. Đám cưới được tổ chức ở ấp Thị Long, huyện Nông Công,
tỉnh Thanh Hóa của gia đình em, nơi ông Lê Đỗ Kỳ có hàng trăm mẫu
ruộng.
Đám
cưới rất đơn sơ, nhưng khỏi nói, hai chúng tôi hạnh phúc hơn bao giờ
hết! Hai tuần phép của tôi trôi qua thật nhanh, tôi phải tức tốc lên
đường hành quân, theo sư đoàn 304, làm chủ bút tờ Chiến Sĩ.
Hôm
tiễn tôi lên đường, em vẫn đứng ở đầu làng, nơi chín năm trước em đã
đứng. Chỉ có giờ em không còn cô bé Ninh nữa mà là người bạn đời yêu quý
của tôi. Tôi bước đi, rồi quay đầu nhìn lại…..
Nếu
như chín năm về trước, nhìn lại chỉ thấy một nỗi buồn man mác thì lần
này, tôi thật sự đau buồn. Đôi chân tôi như muốn khuỵu xuống. Ba tháng
sau, tôi nhận được tin dữ: vợ tôi qua đời! Em chết thật thảm thương: Hôm
đó là ngày 25 tháng 5 âm lịch năm 1948, em đưa quần áo ra giặt ngoài
sông Chuồn (thuộc ấp Thị Long, Nông Cống), vì muốn chụp lại tấm áo bị
nước cuốn trôi đi nên trượt chân chết đuối!Con
nước lớn đã cuốn em vào lòng nó, cướp đi của tôi người bạn lòng tri kỷ,
để lại tôi tôi nỗi đau không gì bù đắp nỗi. Nỗi đau ấy, gần 60 năm qua,
vẫn nằm sâu thẳm trong trái tim tôi.Tôi phải giấu kín nỗi đau trong
lòng, không được cho đồng đội biết để tránh ảnh hưởng đến tinh thần
chiến đấu của họ. Tôi như một cái xác không hồn…
Dường
như càng kìm nén thì nỗi đau càng dữ dội hơn. May sao, sau đó có đợt
chỉnh huấn, cấp trên bảo ai có tâm sự gì cứ nói ra, nói cho hết. Chỉ chờ
có thế, cơn đau trong lòng tôi được bung ra. Khi ấy chúng tôi đang đóng
quân ở Nghệ An, tôi ngồi lặng đi ở đầu làng, hai mắt tôi đẫm nước, tôi
lấy bút ra ghi chép.Chẳng cần phải
suy nghĩ gì, những câu những chữ mộc mạc cứ trào ra: “Nhà nàng có ba
người anh đi bộ đội… Những em nàng có em chưa biết nói. Khi tóc nàng
đang xanh…” Tôi về không gặp nàng…
Về
viếng mộ nàng, tôi dùng chiếc bình hoa ngày cưới làm bình hương, viết
lại bài thơ vào chiếc quạt giấy để lại cho người bạn ở Thanh Hóa… Anh
bạn này đã chép lại và truyền tay nhau trong suốt những năm chiến tranh.
Đó là bài thơ Màu tím hoa Sim.
Đến đây, chắc bạn biết tôi là Hữu Loan, Nguyễn Hữu Loan, sinh ngày
2-4-1916 hiện tại đang “ở nhà trông vườn” ở làng Nguyên Hoàn – nơi tôi
gọi là chỗ “quê đẻ của tôi đấy” thuộc xã Mai Lĩnh, huyện Nga Sơn tỉnh
Thanh Hóa.Em Ninh rất ưa mặc áo
màu tím hoa sim. Lạ thay nơi em bị nước cuốn trôi dưới chân núi Nưa cũng
thường nở đầy những bông hoa sim tím. Cho nên tôi viết mới nổi những
câu : “Chiều hành quân, qua những đồi sim…
Những
đồi sim, những đồi hoa sim.. Những đồi hoa sim dài trong chiều không
hết.. Màu tím hoa sim, tím cả chiều hoang biền biệt…Và chiều hoang tím
có chiều hoang biết…Chiều hoang tim tím thêm màu da diết.”
Mất
nàng, mất tất cả, tôi chán đời, chán kháng chiến, bỏ đồng đội, từ giã
văn đàn về quê làm ruộng, một phần cũng vì tính tôi” hay cãi, thích
chống đối, không thể làm gì trái với suy nghĩ của tôi”. Bọn họ chê tôi
ủy mị, hoạch hoẹ đủ điều, không chấp nhận đơn từ bỏ kháng chiến của tôi.
Mặc kệ! Tôi thương tôi, tôi nhớ hoa sim của tôi quá! Với lại tôi cũng
chán ngấy bọn họ quá rồi!
Đó
là thời năm 1955 – 1956, khi phong trào văn nghệ sĩ bùng lên với sự
xuất hiện của nhóm Nhân Văn Giai Phẩm chống chính sách độc tài, đồng
thời chống những kẻ bồi bút đan tâm lừa thầy phản bạn, dốc tâm ca ngợi
cái này cái nọ để kiếm chút cơm thừa canh cặn.Làm
thơ thì phải có cái tâm thật thiêng liêng thì thơ mới hay. Thơ hay thì
sống mãi. Làm thơ mà không có tình, có tâm thì chả ra gì! Làm thơ lúc
bấy giờ là phải ca tụng, trong khi đó tôi lại đề cao tình yêu, tôi khóc
người vợ tử tế của mình, người bạn đời hiếm có của mình. Lúc đó tôi khóc
như vậy họ cho là khóc cái tình cảm riêng…
Y
như trong thơ nói ấy, tôi lấy vợ rồi ra mặt trận, mới lấy nhau chưa
được hơn một tháng, ở nhà vợ tôi đi giặt rồi chết đuối ở sông…
Tôi
thấy đau xót, tôi làm bài thơ ấy tôi khóc, vậy mà họ cho tôi là phản
động. Tôi phản động ở chỗ nào? Cái đau khổ của con người, tại sao lại
không được khóc? Bọn họ xúc phạm đến tình cảm thiêng liêng của tôi đối
với người vợ mà tôi hằng yêu quý, cho nên vào năm 1956, tôi bỏ đảng, bỏ
cơ quan, về nhà để đi cày.Họ không
cho bỏ, bắt tôi phải làm đơn xin. Tôi không xin, tôi muốn bỏ là bỏ,
không ai bắt được! Tôi bỏ tôi về, tôi phải đi cày đi bừa, đi đốn củi, đi
xe đá để bán. Bọn họ bắt giữ xe tôi, đến nỗi tôi phải đi xe cút kít,
loại xe đóng bằng gỗ, có một bánh xe cũng bằng gỗ ở phía trước, có hai
cái càng ở phía sau để đủn hay kéo.Xe
cút kít họ cũng không cho, tôi phải gánh bộ. Gánh bằng vai tôi, tôi
cũng cứ gánh, không bao giờ tôi bị khuất phục. Họ theo dõi, ngăn cản, đi
đến đâu cũng có công an theo dõi …
Nhưng
lúc nào cũng có người cứu tôi! Có một cái lạ là thơ của tôi đã có lần
cứu sống tôi! Ngoài Yên Mô, tôi cũng có một vài bài thơ khác được mến
chuộng. Sau năm 1956, khi tôi về rồi thấy cán bộ khổ quá, tôi đã làm bài
Chiếc Chiếu, kể chuyện cán bộ khổ đến độ không có chiếc chiếu để nằm!
Định
mệnh đưa đẩy, dắt tôi đến với một phụ nữ khác, sống cùng tôi cho đến
tận bây giờ. Cô tên Phạm Thị Nhu, cũng là phụ nữ có tâm hồn sâu sắc. Cô
vốn là một nạn nhân của chiến dịch cải cách ruộng đất, đấu tố địa chủ
năm 1954, 1955. Lúc đó tôi còn là chính trị viên của tiểu đoàn. Tôi thấy
tận mắt những chuyện đấu tố. Là người có học , lại có tâm hồn nghệ sĩ
nên tôi cảm thấy chán nản quá, không còn hăng hái nữa.Thú
thật, lúc đó tôi thất vọng vô cùng. Trong một xã thuộc huyện Nga Sơn,
tỉnh Thanh Hóa, cách xa nơi tôi ở 15 cây số, có một gia đình địa chủ rất
giàu, nắm trong gần năm trăm mẫu tư điền. Trước đây, ông địa chủ đó
giàu lòng nhân đạo và rất yêu nước.Ông
thấy bộ đội sư đoàn 304 của tôi thiếu ăn nên ông thường cho tá điền
gánh gạo đến chỗ đóng quân để ủng hộ. Tôi là trưởng phòng tuyên huấn và
chính trị viên của tiểu đoàn nên phải thay mặt anh em ra cám ơn tấm lòng
tốt của ông, đồng thời đề nghị lên sư đoàn trưởng trao tặng bằng khen
ngợi để vinh danh ông .Thế rồi,
một hôm, tôi nghe tin gia đình ông đã bị đấu tố. Hai vợ chồng ông bị đội
Phóng tay phát động quần chúng đem ra cho dân xỉ vả, rồi chôn xuống
đất, chỉ để hở hai cái đầu lên. Xong họ cho trâu kéo bừa đi qua đi lại
hai cái đầu đó cho đến chết. Gia đình ông bà địa chủ bị xử tử hết, chỉ
có một cô con gái 17 tuổi được tha chết nhưng bị đội Phóng tay phát động
đuổi ra khỏi nhà với vài bộ quần áo cũ rách.Tàn
nhẫn hơn nữa, chúng còn ra lệnh cấm không cho ai được liên hệ, nuôi
nấng hoặc thuê cô ta làm công. Thời đó, cán bộ cấm đoán dân chúng cả
việc lấy con cái địa chủ làm vợ làm chồng. Biết chuyện thảm thương của
gia đình ông bà địa chủ tôi hằng nhớ ơn, tôi trở về xã đó xem cô con gái
họ sinh sống ra sao vì trước kia tôi cũng biết mặt cô ta.Tôi
vẫn chưa thể nào quên được hình ảnh của một cô bé cứ buổi chiều lại lén
lút đứng núp bên ngoài cửa sổ nghe tôi giảng Kiều ở trường Mai Anh
Tuấn. Lúc gần tới xã, tôi gặp cô ta áo quần rách rưới, mặt mày lem luốc.
Cô đang lom khom nhặt những củ khoai mà dân bỏ sót, nhét vào túi áo,
chùi vội một củ rồi đưa lên miệng gặm, ăn khoai sống cho đỡ đói.Quá
xúc động, nước mắt muốn ứa ra, tôi đến gần và hỏi thăm và được cô kể
lại rành rọt hôm bị đấu tố cha mẹ cô bị chết ra sao. Cô khóc rưng rức và
nói rằng gặp ai cũng bị xua đuổi; hằng ngày cô đi mót khoai ăn đỡ đói
lòng, tối về ngủ trong chiếc miếu hoang, cô rất lo lắng, sợ bị làm bậy
và không biết ngày mai còn sống hay bị chết đói. Tôi suy nghĩ rất nhiều,
bèn quyết định đem cô về làng tôi, và bất chấp lệnh cấm, lấy cô làm vợ.
Sự
quyết định của tôi không lầm. Quê tôi nghèo, lúc đó tôi còn ở trong bộ
đội nên không có tiền, nhưng cô chịu thương chịu khó , bữa đói bữa no….
Cho đến bây giờ cô đã cho tôi 10 người con – 6 trai, 4 gái – và cháu nội
ngoại hơn 30 đứa!Trong mấy chục
năm dài, tôi về quê an phận thủ thường, chẳng màng đến thế sự, ngày ngày
đào đá núi đem đi bán, túi dắt theo vài cuốn sách cũ tiếng Pháp, tiếng
Việt đọc cho giải sầu, lâu lâu nổi hứng thì làm thơ, thế mà chúng vẫn
trù dập, không chịu để tôi yên. Tới hồi mới mở cửa, tôi được ve vãn, mời
gia nhập Hội Nhà Văn, tôi chẳng thèm gia nhập làm gì.Năm
1988, tôi ” tái xuất giang hồ” sau 30 năm tự chôn và bị chôn mình ở
chốn quê nghèo đèo heo hút gió. Tôi lang bạt gần một năm trời theo
chuyến đi xuyên Việt do hội văn nghệ Lâm Đồng và tạp chí Langbian tổ
chức để đòi tự do sáng tác, tự do báo chí – xuất bản và đổi mới thực sự.
Vào tuổi gần đất xa trời, cuối năm 2004, công ty Viek VTB đột nhiên đề nghị mua bản quyển bài Màu tím hoa Sim của
tôi với giá 100 triệu đồng. Họ bảo đó là một hình thức bảo tồn tài sản
văn hóa. Thì cũng được đi. Khoản tiền 100 triệu trừ thuế đi còn 90
triệu, chia “lộc” cho 10 đứa con hết 60 triệu đồng, tôi giữ lại 30 triệu
đồng, phòng đau ốm lúc tuổi già, sau khi trích một ít để in tập thơ
khoảng 40 bài mang tên Thơ Hữu Loan.Sau
vụ này cũng có một số công ty khác xin ký hợp đồng mua mấy bài thơ
khác, nhưng tôi từ chối, thơ tôi làm ra không phải để bán".
Nhà thơ Hữu Loan
( Nguồn :VANDAN NNB)
No comments:
Post a Comment