Sunday, 20 July 2014

Đọc lại “Đi tìm cái tôi đã mất”

20-07-2014

Gs Nguyễn Văn Tuấn/ FB Nguyen Tuan
Nhà văn Nguyễn Khải
Tôi đọc tập tuỳ bút “Đi tìm cái tôi đã mất” của Nguyễn Khải (1) cũng đã lâu. Mấy hôm nay, ở nhà dưỡng bệnh, đọc lại tập hồi kí này càng thấm thía, và tôi nghĩ nó vẫn còn mang tính thời sự. Ông viết rất nhiều và đụng đến rất nhiều vấn đề gai góc. Đọc đoạn nào cũng giống như có người nói hộ mình. Xin trích ra đây vài đoạn tiêu biểu, và tôi không cần bình luận:

Viết về chủ nghĩa thần tượng trong thế giới cộng sản, thế giới mà ông lớn lên và được hưởng quyền lợi, ông nói trong khi lãnh tụ được thần thánh hoá thì cái cá nhân của con người trong xã hội coi như đốt cháy thành tro. Lạ một điều là ông đề cập đến Stalin bên Nga, Mao bên Tàu, và Kim bên Triều Tiên, nhưng ông không nói gì về VN. Có lẽ không nói thì chúng ta cũng hiểu:

“Tính hài hước là cái thứ mà người cộng sản ghét nhất vì nó có thể biến mọi chuyện thiêng liêng thành trò cười. Một học thuyết không thể chứng minh sự đúng đắn của nó trong thực tiễn thì trước sau sẽ biến thành tôn giáo. Vì tôn giáo là niềm tin, là thói quen, là tập quán, là vâng phục, là ở thế giới này chỉ có một chân lý, ngờ vực nó, đặt quá nhiều câu hỏi về nó chỉ là kẻ phản đồ, phải bị trục xuất khỏi cộng đồng, phải bị cách ly, bị ngồi tù để tránh mọi sự truyền nhiễm có thể. Học thuyết xã hội đã phải đội lốt tôn giáo để tồn tại thì mọi thứ thuộc về nó đều là thiêng liêng. Lãnh tụ thành thần thánh, lời nói bài viết của họ thành kinh bổn, cuộc sống cá nhân và xã hội của họ đầy ắp những chuyện phi thường. Hình ảnh của Lenin và Stalin, của Mao Trạch Đông và Kim Nhật Thành và lời nói của các vị ấy bao trùm lên toàn bộ cuộc sống tinh thần của các quốc gia họ cầm quyền, làm gì, nói gì, nghĩ gì đều không thoát ra khỏi cái bóng che ấy. Bài hát về lãnh tụ trang nghiêm như thánh ca, người hát có dáng điệu sùng bái như tín đồ. Cái thế giới cá nhân của các công dân đã bị đốt cháy, đã thành tro bụi và tan biến trong hương khói của đền đài.”

Ông nhắc đi nhắc lại cái học thuyết xã hội bị biến thành tôn giáo, và chuyển đổi thành nhà nước chuyên chế. Cái này thì chúng ta chẳng cần nhìn đâu xa cũng thấy ngay trước mặt: “Bất cứ nhà nước nào lấy học thuyết xã hội hoặc tôn giáo thay cho hiến pháp thì trước sau sẽ chuyển đổi thành nhà nước chuyên chế. Vì trong hàng triệu công dân sẽ có nhiều nhóm người không cùng lòng tin, không cùng tín ngưỡng với nhà cầm quyền. Họ trở thành những cộng đồng đáng ngờ, sẽ bị phân biệt đối xử, trước hết là mất quyền tự do tư tưởng, tự do ngôn luận, tự do xuất bản.”

Về khái niệm “cải tạo” con người, Nguyễn Khải viết: “Do không hiểu con người cá nhân, hoặc chỉ hiểu theo những phân tích máy móc, nông cạn của chủ nghĩa duy vật cơ giới của thế kỷ 19, nên các nước xã hội chủ nghĩa mới dám đặt ra những mục tiêu huênh hoang nhằm cải tạo con người trong vài thập kỷ nếu môi trường xã hội thay đổi. Nên mới gọi nhà văn là “ kỹ sư tâm hồn ” !”

Ông phê phán xã hội VN là không có chân móng vì công dân không được nói thật, sống thật. Ông còn nói đến cái gọi là tình đồng chí giả tạo giữa các quốc gia XHCN: “Một xã hội mà công dân không được quyền sống thật, nói thật, nhà văn cũng không được quyền bộc bạch tâm sự riêng tư của mình trên trang giấy là một xã hội không có chân móng. Các quốc gia cùng sống với nhau trong một liên bang, gọi nhau là anh em là đồng chí, nhìn ngoài thấy họ sống cũng yên ấm vui vẻ. Vậy mà khi họ chia tay nhau cũng dửng dưng. Và ngay lập tức họ nhận ra nhiều mối lợi trên đất nước mình đã bị người anh em ruột thịt chia sẻ trong một cuộc đổi chác không công bằng. Thế là bắt đầu những cuộc tranh chấp các đường biên giới, đã có lúc phải dùng đến xe tăng, đại bác để nói chuyện.”

Ông viết về các nước XHCN xem thường công chúng ra sao: “Nhưng cũng thật trớ trêu, không có một chế độ cộng hoà nào ở thế kỷ 20 lại dám coi thường quần chúng như tại các nước xã hội chủ nghĩa. Sống trong thể chế này suốt mấy mươi năm không có một cuộc biểu tình nào được tổ chức để phản đối một chính sách nào đó của nhà nước. Như thời làm cải cách ruộng đất hay thời huy động nông dân vào các hợp tác xã nông nghiệp. Giám đốc xí nghiệp nhà nước tham ô, mức sống của công nhân giảm sút cũng không có đình công. Nông dân bị kẻ cường quyền đàn áp, làm nhiều việc trái pháp luật, vừa mới nhen nhóm bày tỏ sự bất bình liền bị giập tắt ngay.”

Do đó, “Một dân tộc làm nên chiến thắng Điện Biên Phủ mà mặt người dân nám đen, đi đứng lom rom như một kẻ bại trận. Quả dân tộc Việt nam đã thắng lớn trong chiến tranh giải phóng nhưng lại thua đậm trong công cuộc xây dựng một xã hội tự do và dân chủ. Thoát ách nô lệ của thực dân lại tự nguyện tròng vào cổ cái ách của một học thuyết đã mất hết sức sống. Dân mình sao lại phải chịu một số phận nghiệt ngã đến vậy!”

Rồi ông so sánh với thời Pháp thuộc xem ra còn tốt hơn thời XHCN: “Suốt 80 năm sống dưới ách đô hộ của Pháp, chúng ta vẫn đặt được những viên gạch đầu tiên cho nền văn xuôi Việt Nam. Những truyện ngắn, tiểu thuyết, phóng sự, tuỳ bút của thời ấy được in trên các tuần báo hoặc xuất bản thành sách nay đọc lại vẫn thích thú, vẫn làm ta cảm động. […] Làm thân nô lệ mà vẫn trỗi lên thành những tài năng lớn là sao ? Không chỉ trong văn chương mà còn cả trong mỹ thuật, trong kịch nghệ. Không chỉ trong văn nghệ mà trong cả khoa học, giáo dục, trong kinh doanh theo kiểu tư bản và trong nhiều nghề truyền thống.” Ông giải thích: “cách tổ chức xã hội của giai cấp tư sản dẫu có xấu xa đến tận đâu cũng vẫn tạo được môi trường tự do và dân chủ hơn, mở ra những cơ hội mới cho sự phát triển tài năng của mọi cá nhân và của cả cộng đồng”.

Đoạn ông viết về chuyến thăm Sài Gòn sau ngày 30/4/75 mới hay: “Năm đất nước mới thống nhất vào Sài Gòn được gặp gỡ các nhà văn nhà báo, các nghệ sỹ của chế độ cũ mà thèm. Họ sống thoải mái quá, nói năng hoạt bát, cử chỉ khoáng đạt, như chưa từng biết sợ ai. Còn mình thì đủ thứ sợ, sợ gặp người thân vì chưa rõ họ có liên quan gì với Mỹ nguỵ ? Nói cũng sợ vì nói thế là đúng hay sai ? Đến vẻ mặt của mình cũng phải canh chừng, vui quá sợ mất cảnh giác, khen quá có thể đã ăn phải bả của nền kinh tế tư bản. Người lúc nào cũng căng cứng, nói năng gióng một nên bị bà con trong này chê là quê, nhà văn nhà báo gì mà ‘quê một cục’. Giải thích chuyện này cũng chả khó, họ là sản phẩm của nền kinh tế công nghiệp tư bản, dẫu là thuộc địa cũng vẫn thuộc hệ thống tư bản, vẫn là những người đã được giải phóng khỏi nhiều ràng buộc từ quá khứ trong cách nghĩ, trong cách làm. Còn mình là sản phẩm của nền kinh tế nông nghiệp phong kiến, đâu đã được làm chủ nhân ông nhưng cũng chưa từng được hưởng cái mùi vị tự do và dân chủ là thế nào ! Cái khoảng cách ấy có tính thời đại không thể bỏ qua mà cũng không thể rẽ tắt.”

Để rồi cuối đời ông được gì? “Dành cả một thời thanh xuân để tin vào những lời tiên tri ấy, về già nhìn lại cái tài sản tinh thần thâu góp một đời chỉ là một cái kho chứa đủ tạp nham chẳng có một chút giá trị gì.”
 Theo FB Nguyen Tuan
-----

Saturday, 19 July 2014

Bài học từ Hiệp định Geneva 1954

20-07-2014

Gia Minh/RFA
Ảnh bên:Ông Tạ Quang Bửu, trưởng đoàn Việt Nam Dân chủ Cộng hòa tại buổi ký Hiệp định Genève 1954

Hiệp định Geneva năm 1954 được ký kết nhằm giúp chấm dứt chiến tranh tại Việt Nam và cả Đông Dương. Thế nhưng mục tiêu đó đã không đạt được; trái lại chiến tranh lại diễn ra suốt trong mấy mươi năm sau đó, ngăn chặn sự phát triển của Việt Nam về mọi mặt.

TQ nhượng bộ Pháp và miền Nam?
Gia Minh hỏi chuyện sử gia Phạm Cao Dương hiện ngụ tại California, Hoa Kỳ về những điểm đáng chú ý của Hiệp định Geneva 1954 và bài học cần rút ra. Trước hết ông cho biết:
Phạm Cao Dương: Trước hết Hội nghị Geneva năm 1954 không phải được nhóm họp sau ngày sự kiện Điện Biên Phủ chấm dứt, mà nó đã được triệu tập từ trước rồi (từ ngày 26 tháng 4). Mục tiêu của hội nghị ban đầu không phải bàn về Việt Nam mà bàn về chiến tranh Cao Ly (Triều Tiên). Việc bàn về Việt Nam vào ngày 8 tháng 5 mới bắt đầu và không phải là chính. Nhưng vì tình hình tại Việt Nam thay đổi: biến cố, trận chiến Điện Biên Phủ chấm dứt nên người ta họp vào ngày đó.
Thứ hai, sách trong nước thường ca ngợi đó là chiến thắng của phía Việt Minh. Điều đó không hoàn toàn đúng, vì nếu chúng ta theo dõi những gì xảy ra trước đó khi ông Hồ Chí Minh và Võ Nguyên Giáp sang họp với Chu Ân Lai ở Liễu Châu, người ta thấy phía Việt Minh tức tối lắm. Sau này ông Võ Nguyên Giáp có nói rằng khi ông thuyết trình thì bản đồ đưa ra ‘đỏ’ hết tất cả; nhưng đến khi Chu Ân Lai thuyết trình thì theo lời ông Võ Nguyên Giáp ‘Bác và tôi rất ngỡ ngàng’ vì sự nhượng bộ mà Chu Ân Lai dành cho phía Pháp và miền Nam.
 Lý do hai ông Hồ Chí Minh và Võ Nguyên Giáp không vừa ý vì hai ông tin tưởng được nhiều lợi thế hơn những gì mà phía Chu Ân Lai và Molotov (ngoại trưởng Nga lúc đó) buộc phía Việt Minh phải chấp nhận. Trước hết là sự hiện diện của bộ đội Việt Minh ở Miên và Lào. Chủ trương của Việt Minh hồi đó là muốn nâng đỡ hai tổ chức cộng sản bên Miên và Lào (Pathet Lào và Khmer Issarak). Phía đại diện Việt Nam Dân chủ Cộng Hòa luôn phủ nhận không có sự hiện diện của bộ đội bên hai nước đó, nhưng cuối cùng Chu Ân Lai và Molotov ép buộc Việt Minh phải phần nào chấp nhận điều đó, và sau đó chấp nhận luôn. Có nghĩa chấp nhận đã rút rồi nhưng vẫn còn một phần ở lại bên Miên và Lào. Do vậy Pháp và phía Miên, Lào không chấp nhận nên cuối cùng chấp nhận ‘nếu còn sẽ rút đi’.
Điểm nữa về phân chia lãnh thổ. Khi có sự chia đôi, bên phía người Pháp đề nghị vĩ tuyến 19 và phía Việt Minh muốn vĩ tuyến 13 hay ít ra là vĩ tuyến 16; nhưng cuối cùng cũng hai ông Chu Ân Lai, Molotov và phía người Pháp - Mendes France, thỏa thuận vĩ tuyến 17.
Đến chuyện ngày bầu cử thống nhất, đầu tiên Phạm Văn Đồng muốn 6 tháng, nhưng sau đó lên 1 năm và 2 năm. Quyết định cuối cùng là năm 1956, tức 2 năm sau.
Cần phải để ý là Trung Quốc trong thời điểm đó mới làm chủ được lục địa Trung Hoa và chưa có vai trò quốc tế nào nên họ muốn vai trò nào đó, và Hội nghị Geneva là cơ hội để họ đóng vai trò đó.
Gia Minh: Việc tuyển cử như ông nói được thống nhất vào năm 1956, sau đó Việt Nam Dân chủ Cộng Hòa có đề nghị với phía miền Nam, nhưng miền Nam từ chối. Lý do vì sao thưa ông?
Phạm Cao Dương: Thực ra phía miền Nam mà buổi đầu là Quốc gia Việt Nam của Bảo Đại và sau này là Việt Nam Cộng Hòa của ông Ngô Đình Diệm, không chấp nhận bản Tuyên bố Cuối cùng. Chúng ta nên nhớ sự thỏa thuận ở Geneva gồm hai phần: phần thứ nhất là đình chiến và phần thứ hai là chính trị. Phần đình chiến được ký kết hẳn hoi, có nhiều bản thỏa ước; còn phần chính trị không có bản thỏa ước được ký kết mà chỉ là Bản Tuyên bố Cuối cùng được các bên chấp nhận bằng miệng mà thôi.
Phía Quốc gia Việt Nam lúc đó và sau này là Việt Nam Cộng Hòa thì không chấp nhận Bản Tuyên bố Cuối cùng đó. Phía Mỹ cũng không chấp nhận. Nên nếu không chấp nhận thi hành cuộc bầu cử đó chẳng qua vì họ không bị ràng buộc về phương diện pháp lý.
Thứ hai nữa, nếu có bầu cử phải cần những điều kiện tối thiểu để có sự công bằng. Đằng này chưa chắc có sự công bằng đó, thành ra miền Nam không chấp nhận cũng có lý của họ.
Bài học kinh nghiệm
Gia Minh: Sau 60 năm rồi, ông thấy có những bài học gì?
Phạm Cao Dương: Trong những hoạt động bang giao quốc tế, các quốc gia luôn đặt quyền lợi của mình lên trên, kể cả đồng minh cũng đứng hàng thứ không quan trọng. Nếu bên Trung Quốc vì quyền lợi riêng mà hy sinh đồng minh là Việt Nam Dân chủ Cộng Hòa thì đó cũng là điều tự nhiên mà thôi. Nhưng Hà Nội không thấy điều đó!
Thứ hai nếu nhìn vào thế giới trong thời gian đó và những năm tiếp theo, không phải chỉ có Việt Nam bị chia đôi. Còn nhiều nước khác bị chia đôi nữa nhưng không có nước nào dùng võ lực để tiến chiếm nước kia. Còn Việt Nam thì chuyện đó đã xảy ra.
Nhưng hậu quả là Hà Nội không có đủ thực lực để tự mình đánh xuống miền Nam nên phải dựa vào thế của Trung Quốc; Hà Nội và cả miền Nam đều không nhận ra điều, không biết đánh lá bài của Trung Quốc. Vì hồi đó Trung Quốc không muốn người Mỹ vào miền Nam và hiện diện tại miền Nam, họ muốn dùng người Pháp để giữ không cho Mỹ can thiệp vào Việt Nam.
Gia Minh: Cám ơn sử gia Phạm Cao Dương.

Hiệp định Geneva: Những gì để lại cho hôm nay?

20-07-2014

Ngô Vương Anh/Vnn
Ảnh bên:Thủ tướng Phạm Văn Đồng dẫn đầu đoàn đại biểu Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đến Thụy Sỹ dự hội nghị Genève về Đông Dương, tháng 5/1954.
Bài học lớn nhất, bao quát nhất nhìn từ Hiệp định Geneva sau 60 năm là bài học về tinh thần độc lập tự chủ. Ngoài ra, phải hiểu cả những toan tính của “đồng chí”, “đồng minh”, không mơ hồ và ảo tưởng.

Sau hơn hai tháng đàm phán, từ ngày 8/5/1954, Hiệp định Geneva 1954 về Đông Dương được ký ngày 20/7/1954. Đánh giá đúng những bài học, kinh nghiệm từ Hội nghị Geneva và bản Hiệp định này trong bối cảnh hôm nay vẫn có ý nghĩa sâu sắc. 
Thắng lợi chưa trọn vẹn
Hiệp định Geneva là văn bản pháp lý quốc tế thứ ba của Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Hai văn bản trước là Hiệp định sơ bộ 6/3/1946 và Tạm ước 14/9/1946 được Chủ tịch Hồ Chí Minh ký với Chính phủ Pháp. Nước Pháp từ vị thế kẻ cai trị thực dân đã phải công nhận và tôn trọng quyền cao nhất của dân tộc Việt Nam là độc lập, quyền cao nhất của nhân dân Việt Nam là tự do. Nước Việt Nam từ chỗ chưa có tên trên bản đồ thế giới đã trở thành một biểu tượng sáng ngời của ý chí đấu tranh giành độc lập dân tộc, là tấm gương cổ vũ các dân tộc bị áp bức vùng lên làm sụp đổ hệ thống thuộc địa của chủ nghĩa thực dân kiểu cũ.
Hiệp định Geneva, Việt Nam, Pháp, Trung Quốc, đồng chí, đồng minh
Vĩ tuyến 17 (Quảng Trị) trở thành giới tuyến tạm thời chia cắt hai miền Bắc - Nam.
Với Hiệp định Geneva, chúng ta đã kết thúc được chiến tranh, buộc Pháp phải rút hết quân và công nhận quyền dân tộc cơ bản của nhân dân Việt Nam; giải phóng hoàn toàn miền Bắc để có điều kiện xây dựng những cơ sở vật chất đầu tiên cho xã hội Xã hội Chủ nghĩa trong điều kiện hòa bình; tạo cơ sở pháp lý để đấu tranh thống nhất đất nước sau đó. 
Bối cảnh khi đó, trên bàn đàm phán Geneva, Pháp đã thất bại trong trận quyết chiến chiến lược ở Điện Biên Phủ, muốn rút khỏi “bãi lầy chiến tranh” Đông Dương trong danh dự, Việt Nam đến Geneva với tư thế của người chiến thắng trên chiến trường. Việc bàn giải pháp cho cuộc chiến Đông Dương(…) không do hai bên trực tiếp tham chiến mà do các “nước lớn” giữ vai trò chính. Pháp là bên tham chiến trực tiếp nhưng luôn lẩn tránh đàm phán trực tiếp với phái đoàn Việt Nam mà dùng vai “nước lớn” để thỏa thuận ngầm với Liên Xô và đặc biệt là với Trung Quốc. Tại Geneva, Trung Quốc đã tìm mọi cách dàn xếp các vấn đề tại Hội nghị theo hướng giành lợi ích quốc gia cho Trung Quốc.
Một khó khăn khác của đoàn Việt Nam là các kênh liên lạc đều nhờ Trung Quốc với lòng tin vào tình đồng chí. Đoàn đàm phán Việt Nam gặp nhiều bất lợi, bị cô lập và không có kinh nghiệm đàm phán nên đã không (thể) bảo vệ được những yêu cầu quan trọng của mình.
Hội nghị Geneva đã quyết định những vấn đề có liên quan đến các lực lượng kháng chiến ở Lào và Campuchia mà không có sự tham gia của các chính phủ kháng chiến ở hai nước này. Đại diện cho cả ba Chính phủ kháng chiến ở Đông Dương chỉ có một đoàn đại biểu của Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hoà. Việc xác định ranh giới quân sự tạm thời và phân chia khu vực tập kết chuyển quân ở Việt Nam không phải vĩ tuyến 13 hay 16 theo phương án của Việt Nam, mà là vĩ tuyến 17. Việt Nam mất ba tỉnh khu V và nhiều vùng tự do phía Nam vĩ tuyến 17.
Ở Lào, lực lượng kháng chiến chỉ được một vùng tập kết gồm hai tỉnh Sầm Nưa và Phôngxalỳ - nhỏ hơn nhiều so với vùng giải phóng thực tế. Lực lượng kháng chiến Campuchia phải phục viên tại chỗ. Thời hạn tổng tuyển cử để thống nhất Việt Nam không phải là 6 tháng như phương án của Việt Nam, mà là 2 năm. Dù vậy, việc này đã không thể thực hiện do chính sách can thiệp và xâm lược của Mỹ.
Hiệp định Geneva, Việt Nam, Pháp, Trung Quốc, đồng chí, đồng minh
Thủ tướng Phạm Văn Đồng dẫn đầu đoàn đại biểu Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đến Thụy Sỹ dự hội nghị Genève về Đông Dương, tháng 5/1954.
 Những gì Việt Nam đạt được ở Hội nghị Geneva là kết quả của 9 năm kháng chiến anh dũng, nhiều hy sinh gian khổ của nhân dân ta, nhưng kết quả đó chưa tương xứng với thực tế trên chiến trường. Nhân dân cả hai miền Nam - Bắc Việt Nam còn phải đi tiếp chặng đường dài 21 năm với nhiều sự hy sinh mất mát đau thương hơn để đạt tới điều lẽ ra đã diễn ra từ tháng 7/1956.
Bài học về tinh thần độc lập tự chủ 
Bài học lớn nhất, bao quát nhất nhìn từ Hiệp định Geneva sau 60 năm là bài học về tinh thần độc lập tự chủ. Bên cạnh đó là bài học về kết hợp nhuần nhuyễn giữa ngoại giao với quân sự, tạo cục diện vừa đánh vừa đàm để đối phó với kẻ địch mạnh hơn; kiềm chế kẻ thù, tạo dư luận quốc tế, gây áp lực buộc đối phương xuống thang cả trên chiến trường và trên bàn đàm phán đã được phát huy trên bàn Hội nghị Paris và chúng ta đã đạt thắng lợi. 
Quá trình đàm phán để đi đến bản Hiệp định Paris (1/1973) sau này đã nói lên điều đó. Trong những ngày đàm phán ở Paris, Cố vấn đặc biệt Lê Đức Thọ đã nói với ông H. Kissinger (được tác giả Larry Berman trích dẫn): “Trong cuộc đấu cờ, người thắng và kẻ thua phải chính là những người chơi cờ, không còn cách nào khác. Chúng tôi độc lập trong việc giải quyết vấn đề của chúng tôi” (1).
Kinh nghiệm lịch sử cho thấy những “nước lớn” luôn có những toan tính chiến lược riêng. Trong đấu tranh ngoại giao, điều cốt yếu là phải phân tích và nhận rõ chiến lược và những mục tiêu của các nước “lớn” để có chiến lược và sách lược đối phó hiệu quả. Sự dàn xếp, thoả hiệp giữa các nước “lớn” tại Hội nghị Geneva làm hại đến lợi ích của Việt Nam, Lào và Campuchia. Đây cũng là điều khó tránh ở một hội nghị quốc tế, khi “luật chơi” và cả diễn biến “cuộc chơi” đều do các nước “lớn” quyết định. Ở Hội nghị Geneva, Việt Nam đã phải thuận theo nhiều lời “chỉ dẫn” bất lợi từ các “đồng chí”, “đồng minh” của mình. Bài học sâu sắc qua Hội nghị Geneva là phải hiểu cả những toan tính của “đồng chí”, “đồng minh”, không mơ hồ và ảo tưởng.
Hiệp định Geneva, Việt Nam, Pháp, Trung Quốc, đồng chí, đồng minh
Hội nghị Genève khai mạc ngày 26/4/1954. Mục đích ban đầu của hội nghị là bàn về khôi phục hòa bình tại Triều Tiên và Đông Dương.
Điều bộc lộ rõ trong quan hệ quốc tế hiện nay là trong nhiều trường hợp các nước “lớn” áp đặt những “luật chơi” không phù hợp, làm tổn hại đến lợi ích của nước khác. Nhưng kinh nghiệm lịch sử cũng chỉ ra rằng, tiếng nói của khu vực và các nước vừa và nhỏ có “sức nặng” đến mức nào phụ thuộc nhiều yếu tố, trong đó một phần lớn phụ thuộc vào sự chủ động, sự nhạy bén, khôn khéo của những nước này với các “nước lớn” và cả giữa các nước “vừa” và “nhỏ” với nhau. 
Điều các nước “nhỏ” luôn cần (phải) làm là tăng cường thực lực của đất nước, tạo cơ sở vững chắc cho hoạt động đối ngoại, bảo vệ chủ quyền dân tộc, bảo vệ hoà bình và an ninh quốc tế. Trong hoạt động đối ngoại phải đánh giá chính xác tình hình thế giới, nhất là chiến lược của các nước “lớn”, tìm ra đối sách phù hợp trong từng thời gian, cho từng vấn đề, đảm bảo lợi ích quốc gia dân tộc. Am hiểu đối tác - đồng thời cũng là đối tượng - là yêu cầu quan trọng trong quá trình hội nhập.
  • Ngô Vương Anh
(1): Larry Berman (2003) - Không hoà bình, chẳng danh dự Nixon, Kissinger, và sự phản bội ở Việt Nam, (Nguyễn Mạnh Hùng dịch), Việt Tide xuất bản, tr 145

Wednesday, 16 July 2014

Bài học lịch sử “Tin bợm mất bò"

16-07-2014


Hoàng Tuấn Phổ/ Blog Tuấn công thư phòng 

Tượng Bá Đa Lộc và Hoàng tử Cảnh.
Truyền thống Việt – Miên- Lào- Xiêm tình nghĩa láng giềng giáp mái kề hồi, sớm khuya tắt lửa tối đèn có nhau. Vua Gia Long, trước khi mất, căn dặn Hoàng Thái tử (Tức Minh Mạng): “Không được gây hấn ngoài biên”. (Đại Nam Thực lục). Năm 1823, Diến Điện sau mấy lần xâm lược Xiêm, bị nhà Nguyễn giúp Xiêm đánh thua, xin lập đồng minh Việt- Diến chống Xiêm, Minh Mạng từ chối.

Nhà vua nói với triều thần: “Không nên bỏ tình hòa hiếu mà tìm sự cừu thù”. (Đại Nam thực lục). Dĩ nhiên, “Bát đũa còn có khi xô” quan hệ Việt – Xiêm không tránh khỏi có lúc bị sứt mẻ. Bản tính các vua Xiêm hay cậy mạnh, nhiều tham vọng, muốn thôn tính Miên (Căm puchia), thừa thắng xâm chiếm luôn vùng đất Gia Định (Nam bộ), để Lào hết chỗ dựa, dễ bề đô hộ. Ví dụ, năm 1833, quân Xiêm đánh chiếm các tỉnh Hà Tiên, Châu Đốc, tấn công cả miền đất phía tây Quảng Trị và xâm phạm biên giới Nghệ An, uy hiếp kinh đô Huế, khiến triều Nguyễn hết sức lo lắng. Phải mất mấy năm vất vả, quân Nguyễn mới đuổi được quân Xiêm ra ngoài bờ cõi, giữ gìn bình yên ba nước anh em Việt – Miên – Lào.  Đối với Xiêm, sau chiến tranh xâm lược, triều đình Nguyễn vẫn sẵn sàng bỏ qua lầm lỗi, lại quan hệ hoà hiếu với Xiêm.
Ngược dòng lịch sử, chính Nguyễn Ánh (sau là vua Gia Long), ông chúa cuối cùng của vương triều Nguyễn, bị quân Tây Sơn chiếm mất Gia Định, dồn đến chân tường, vẫn không dám quyết định cầu viện vua Xiêm vì không tin lắm người bạn láng giềng đầy tham vọng. Tuy nhiên, một sự kiện bất ngờ xảy ra đã đưa đẩy ông vào vòng xoáy lịch sử. Nguyên do, tướng Châu Văn Tiếp của Nguyễn Ánh bị thua trận, chạy thẳng sang Vọng Các (Băng Cốc) cầu cứu vua Xiêm. Vua Xiêm sai hai người cháu, tướng Chiêu Tăng, Chiêu Sương đem hai vạn quân đánh Gia Định mượn tiếng giúp Nguyễn Ánh để trả thù Tây Sơn vốn đã gây cho Xiêm mối bất bình từ trước. Hai tướng Xiêm thả cho quân sĩ cướp bóc, hãm hiếp dân lành, bị quân Tây Sơn đánh thua tan tác. Nguyễn Ánh thất vọng, tập hợp bề tôi của mình rút về đảo Thổ Chu. Theo lời đức cha Bá Đa Lộc (tức Pigneau) kể trong thư đề ngày 20 tháng 3 năn 1785: Nguyễn  Ánh than rằng người Xiêm lừa gạt ông, mượn cớ lập lại quyền bính cho ông mà cướp bóc dân chúng và bắt sống ông thôi! (Tạ Chí Đại Trường: Lịch sử nội chiến 1771- 1802- NXB Công an nhân dân, tr.143).
Dẫu sao, sai lầm của của Châu Văn Tiếp dẫn đến hậu quả nghiêm trọng, Nguyễn Ánh là chủ soái vẫn phải chịu trách nhiệm.
Mạc thị gia phả, tập sử liệu của người đương thời sống trong cuộc (Vũ Thế Dinh ) chép rõ: “Chiêu tăng và Chiêu Sương thả quân cướp bóc tàn hại dân chúng. Vua (tức Nguyễn Ánh) ngăn cản không được, nhỏ nước mắt than: “Việc phục quốc cốt là lo cho nước cho dân, thế mà nay để cho bọn ấy thả sức làm điều bạo ngược, làm quốc chủ như ta làm gì, kẻo rồi giặc nguỵ (tức Tây Sơn-HTP) lại vin vào cớ đó vu cho ta rước giặc về tàn hại nhân dân. Ta không nỡ nhìn thấy cảnh đó!” Chư tướng xin từ nay không để mặc cho bọn chúng hoành hành tàn bạo nữa” (Mạc thị gia phả-NXB Thế giới). Sau đó, nhiều lần vua Xiêm muốn gửi quân sang giúp, Nguyễn Ánh đều không nhận. Chẳng hạn: Tháng 9 năm Quý Sửu (1793) vua Xiêm sai đại tướng Chất Trì đóng quân 5 vạn ở Nam Vang (Nông Pênh) gửi 500 chiến thuyền đậu biển Hà Tiên, đua thử hẹn giúp Nguyễn Ánh diệt Tây Sơn nhưng ông từ chối khéo. Nguyễn Ánh nói với tướng sĩ: “Mượn người ngoài giúp, đưa họ vào trong nước mình, sợ di mối hại về sau”. (Đại Nam thực lực chính biên).
Nhưng, ở đời “không cái dại nào giống cái dại nào” ! Nguyễn Ánh thoát bàn tay vua Xiêm, lại rơi vào cạm bẫy Bá Đa Lộc!
Không biết đã có bao nhiêu độc giả hiểu lầm, bởi một giáo sư nổi tiếng hàng đầu ngành sử học, dùng ngòi bút đanh thép của mình kết tội các vua Nguyễn (trong đó có Gia Long Nguyễn Ánh) “bành trướng, xâm lược”“chính sách xâm lược tai hại của triều đình nhà Nguyễn càng làm cho cuộc khủng hoảng trong nước thêm sâu sắc”. Ông tâng bốc Xiêm hết lời và mạt sát Nguyễn cũng cạn lời! (Trần Văn Giàu:Sự khủng hoảng của chế độ phong kiến nhà Nguyễn… - NXB Văn hoá, tr.100- 119). Sự thật, từ thời các chúa Nguyễn, hai nước Miên, Lào đã nhờ Nam hà “bảo hộ” để chống lại sự bành trướng của Xiêm. Và các chúa Nguyễn rồi tiếp theo là các vua Nguyễn đều hết lòng với Miên, Lào trong việc “bảo hộ”, vì “bảo hộ” bảo cũng tức là bảo vệ mình. “Bảo hộ” là gì ? Theo quan niệm các vua chúa nhà Nguyễn “bảo hộ” là giúp đỡ, bảo vệ, khác với “đô hộ” là thống trị, xem nước người ta như thuộc quốc, thuộc địa của nước mình. Chính sách bảo hộ của nhà Nguyễn khá minh bạch. Gia Long bảo triều thần: “Bảo hộ là cốt giữ cho nước ấy được còn, chứ không phải để giám sát, cai trị nước ấy. Vậy nên hạ lệnh cho bọn Thuỵ (Viên quan phụ trách bảo hộ Cao Miên) chớ nên can dự vào chính sự nước ấy, để cho phiên vương (vua nước nhỏ ở bên cạnh nước lớn) được tự làm việc thì lòng dân sẽ yên”. Một số triều thần muốn giải quyết dứt điểm vấn đề Cao Miên để đối phó dứt khoát với Xiêm, Gia Long nói: “Được một nước Chân Lạp (Cao Miên, Campuchia) để sự lo về sau, trẫm quyết không làm như thế” (Đại Nam thục lục). Đó là quan điểm đúng đắn mang tầm chính trị sáng suốt, sâu xa của ông vua giỏi.
Người ta hay nhắc đến hiệu ước Versailles như một chứng cớ không thể chối cãi để kết tội Nguyễn Ánh “cắt đất xin ngoại viện”, “rước voi dày mả tổ”…! Giáo sư Phan Huy Lê đầu ngành sử học Việt Nam, kết luận Hội thảo khoa học, cho rằng đó là “tì vết” của Gia Long Nguyễn Ánh. Ý kiến ông chỉ là cách nói khác của một quan điểm xưa cũ. (Hội thảo khoa học “Chúa Nguyễn và vương triều Nguyễn…” 18-19/10/2008- NXB Thế giới ấn hành 2008)
Vậy thực chất hiệu ước Versailles là gì?
Trước khi Châu Văn  Tiếp bại trận, tự ý cầu cứu vua Xiêm, thời gian khoảng một năm, Nguyễn Ánh đã nghe theo lời bàn của Bá Đa Lộc quyết định việc cầu viện phương tây. Bá Đa Lộc là ai ? Bá Đa Lộc, một nhà truyền giáo (đạo Thiên Chúa) nổi tiếng Nam hà bấy giờ. Thông thường, người ta gọi ông là đức cha cả, được triều Nguyễn phong tước Bi Nhu quận công. Ông còn các tên Pháp: (Giám mục) D’Adran, (đức ông) Pigneau, Pierre Yoseph, Georges, Pingeau de Béhaine… Công việc truyền giáo gặp khó khăn tại Nam hà vì nội chiến Tây Sơn- Nguyễn Ánh, Bá Đa Lộc đang phải bôn ba ở Nam Vang được Mạc Thiên Tứ trấn thủ Hà Tiên thời chúa Nguyễn đưa đến gặp Nguyễn Ánh tại đảo Thổ Chu. Chính ở đây, đức cha cả, năm 1784, hứa giúp ông chúa mất nước cầu viện Đại Tây.
Nhiều giáo sĩ nước ngoài có mặt ở Việt Nam bấy giờ, qua các thư từ, giấy tờ đều ghi nhận: Không riêng Nguyễn Ánh mà cả Tây Sơn (Nguyễn Nhạc hay Nguyễn Huệ?) và chúa Trịnh đều muốn họ xin Tây dương giúp cho tàu to súng lớn, binh lính thiện nghệ để nhanh chóng tiêu diệt đối phương. Cả ba ông chúa nước Nam đều được các giáo sĩ đặt lên bàn cân, và cán cân nghiêng về Gia Định vì Nguyễn Ánh có vẻ đáng tin hơn, trong khi Bình Định cũng như Thăng Long đều đối xử tồi tệ với nhà thờ, thô bạo với cha cố.
Bá Đa Lộc đem Hoàng tử Cảnh đi cầu viện từ cuối năm 1784 đến năm 1787 (ba năm sau mới đến nước Pháp). Nghĩa là Bá Đa Lộc bế Hoàng tử Cảnh cùng đoàn tuỳ tùng đang lênh đênh trên Ấn Độ dương, hai vạn quân Xiêm của Chiêu Tăng, Chiêu Sương vẫn còn đóng ở bên kia biên giới nước Việt. Bá Đa Lộc đến Pháp đầu năm 1787, phải chờ 10 tháng sau, ngày 28/11 Hiệp ước mới được ký kết, một bên là đại diện của Louis XVI, một bên Bá Đa Lộc được Nguyễn vương (Nguyễn Ánh) ủy nhiệm với tờ giấy viết từ năm, sáu năm trước ! Không có quốc thư (đáng lẽ nhất thiết phải có mới có giá trị pháp lý) chỉ có một “tín vật” làm tin, ấy là chú bé được mang tên Hoàng tử Cảnh, lúc ra đi tuổi lên 3, bây giờ lên 7. Pháp hứa giúp Nguyễn Ánh 4 chiếc tàu, 1.200 bộ binh, 200 pháo binh, 250 lính Phi để đổi lấy cửa biển Hội An, sau thêm đảo Côn Lôn (Côn Đảo). Pháp được toàn quyền và độc quyền thương mại ở Nam hà (Văn Tân: Cách mạng Tây Sơn-NXB Văn sử địa-Hà Nội, 1958 và tài liệu khác)...
Nhưng Hiệp ước Versailles không thành, mà giống như một trò đùa ! Nhiều năm sau ký Hiệp ước, người Pháp còn chép miệng tiếc của vì đã bỏ mất món hàng béo bở ! Họ không biết chính bởi món hàng Hiệp ước Versailles quá hời, hời tới mức không thể tin. Toàn quyền De Conway được giao trách nhiệm thi hành Hiệp ước, vốn tính đa nghi càng thêm hoài nghi. Ông đã phái nhiều đoàn đến Nam hà (miền Nam) thám thính, tìm hiểu các cửa biển, các đảo lớn nhỏ và thực lực Nguyễn Ánh...Hẳn là tên cáo già bản tính hồ nghi này đã đánh hơi thấy nhượng địa quan trọng: Cửa biển Hội An dang thuộc quyền quản lý của Tây Sơn hùng mạnh, còn Côn Lôn chỉ là hoang đảo vô dụng giữa trùng khơi mịt mùng sóng gió, nơi ẩn náu của lũ cướp biển !
Tờ báo Gazette nationale ngày 14/6/1789 xuất bản tại Pondichery viết: “Không bao giờ tình hình dễ dàng cho việc lập lại quyền bính cho ông vua mất ngôi đã trở về chiếm 5 tỉnh phía Nam như bây giờ !” Đó là một nhận xét đầy mỉa mai được báo Gazette nationale phản ánh sự tiên đoán tương lai đen tối của Nguyễn Ánh dưới con mắt người Pháp. (Thời điểm này, Nguyễn Ánh bằng thực lực của mình chỉ mới chiếm lại được vùng đất Gia Định-Nam Bộ. Trong khi Tây Sơn hùng mạnh đang cai quản cả đất nước. Và sau khi đập tan 20 vạn quân Thanh, củng cố quyền lực, nếu Quang Trung không đột ngột qua đời, Nguyễn Ánh cũng khó bề có được vùng đất đứng chân dù nhỏ bé trên đất liền, nói chi đến 5 tỉnh phía Nam). Hiệp ước Versailles thất bại, De Conway coi là một trò đùa, Nguyễn Ánh cũng xem như tờ giấy lộn. Nhưng Bá Đa Lộc không thể đi không lại về không. Con đường truyền giáo của đức cha cả có thể phải chấm hết, nếu ông bị mất hoàn toàn lòng tin đối với Nguyễn Ánh. Ông tất tả chạy ngược, chạy xuôi mới quyên góp nổi tiền mua 1.000 khẩu súng trường, và mộ được 19 người gồm nhiều thành phần xã hội khác nhau, nhưng đều giống nhau ở chỗ hám lợi, ham danh ! Chính Bá Đa Lộc đã dụ dỗ họ, đưa họ đến miền đất hứa, làm quan và làm giàu ! Họ đến Gia Định tháng 7 năm 1789, thường ngày lo đánh chén hơn đánh giặc, và rốt cuộc đánh bài chuồn sau mấy năm “làm ăn” không “phát tài” ! Theo số liệu của các giáo sĩ bấy giờ đang ở Gia Định, trong quân đội của Nguyễn Ánh, đến năm 1800, người Tây cũng chỉ có khoảng hơn 40 người ! Như vậy, không có căn cứ, nếu nói Nguyễn Ánh dựa vào lực lượng Tây dương để đánh bại Tây Sơn. Sự thực, trong lúc Nguyễn Ánh đang lên thác xuống ghềnh ở Nam bộ, “con voi” Louis XVI đã già nua, lại đang sa lầy tại chính nước Pháp, Nguyễn Ánh làm sao “rước” nổi nó sang Nam Việt ?
Nguyên nhân thất bại của chính quyền Tây Sơn nằm trong nội bộ triều đình Nhà Tây Sơn. Năm 1792, vua Quang Trung mất, chỉ 10 năm sau, 1802, mấy anh em Quang Toản cùng tướng soái thân cận phải chịu trói ở nơi còn âm vang tiếng thét oai hùng của Nguyễn Huệ, làm vỡ mật 20 vạn quân Thanh xâm lược ! Quang Toản là một hôn quân làm hỏng sự nghiệp vĩ đại vua cha để lại, nhưng mầm tai vạ gây nên họa loạn trong hoàng thất và triều đình văn võ cũng do chính Quang Trung gieo trồng từ trước.
Khi nhà Tây Sơn sắp hết vai trò lịch sử, lịch sử tất phải chọn ai đó, không người này thì người khác, đứng ra dọn dẹp cơ đồ đổ nát để xây dựng trên nền tảng quốc gia nghìn năm văn vật một tòa lâu đài mới. Lịch sử cũng có thể chọn lầm ai đó, nhưng với Nguyễn Ánh là nhân vật xứng đáng nhất vì ông đã thành công nhất. Nếu chê Nguyễn Ánh, lịch sử sẽ chọn ai bấy giờ ? Điểm mặt các anh hùng, hào kiệt xuất hiện trong lúc bão táp nội chiến nổi lên khắp trong Nam ngoài Bắc, còn ai hơn Nguyễn Ánh hay bằng Nguyễn Ánh ? Thiết tưởng hậu thế không nên quá khắt khe hay khó tính đòi hỏi những gì lịch sử không thể có được, những gì Nguyễn Ánh không thể làm nổi. Hạn chế lịch sử từ Quang Trung đến Gia Long là không dám cởi bỏ sớm chiếc long bào thêu rồng ố vàng, cũ kỹ để thay bằng bộ “complet tân thời” mới toanh của văn minh tư sản ! Luẩn quẩn, tù túng trong cái lồng phong kiến đã trở nên quá chật hẹp, lạc hậu, Gia Long phải hết sức cố gắng để trụ vững, tạo cơ sở cho Minh Mạng phát triển, nhưng sang Thiệu Trị thì bắt đầu lung lay, và đến Tự Đức hoàn toàn chịu bất lực trước cơn giống tố phương Tây ập  tới !
Vua Tự Đức giao cho triều thần Phan Thanh Giản cắt đất giảng hòa. Nhưng đế quốc Pháp đang thèm khát thuộc địa, đâu đã no mồi sau khi nuốt trôi Sài Gòn, Gia Định ? Việt Nam mất, Campuchia, Lào cũng mất ! Triều đình Huế, phe chủ hòa do nhà vua đứng đầu đã quên bài học “Tin bợm mất bò” mà tổ phụ Nguyễn Ánh-Gia Long phải trả bằng xương máu ! Không thể nói như GS Phan Huy Lê đó là “tỳ vết” (vết xấu, vết nhơ), mặc dù sự thật thế nào, Nguyễn Ánh cũng phải chịu trách nhiệm tất cả. Rất may, Hiệp ước Versailles chỉ là “một trò đùa”, “tờ giấy lộn”. Nhưng nếu nó được thi hành nghiêm túc thì sao ? Hậu quả sẽ khó lường ! Và có thể, Nguyễn Ánh sẽ mang tội với dân tộc đã “đổi đất lấy nước”. Tội này thuộc về tự Đức và phe chủ hòa triều đình Huế “cắt đất giảng hòa” để cuối cùng mất tất cả đất và nước !
Bài học Nguyễn Ánh phải trả giá rất đắt đã trao đứa con trai đầu lòng mới lên ba-Hoàng tử Cảnh-cho hồ ly Bá Đa Lộc. Đức cha cả khoác áo thầy tu, núp dưới danh nghĩa nhà truyền giáo, thực chất là một điệp viên lợi hại. Với Bá Đa Lộc và nhiều cha cố khác, truyền giáo gắn liền với xâm lược. Sau Hiệp ước Versailles, Nguyễn Ánh tiếp tục giao phó con trai sẽ kế nghiệp nhà Nguyễn cho Bá Đa Lộc dạy dỗ, kèm cặp. Ngày giỗ gia tiên, Hoàng tử Cảnh không chịu vái lậy ông bà, Nguyễn vương hỏi đức cha cả tại sao thầy dạy học trò quên ông bà ? Bá Đa Lộc ngang nhiên trả lời: Thờ cúng ông bà, tin ông bà phù hộ con cháu sống lâu, giàu có là mê tín dị đoan ! Nguyễn Ánh bất bình bảo Bá Đa Lộc: Lễ bái là để chứng tỏ con cháu nhớ ơn tổ tiên, ông bà, để đền đáp công ơn ấy, tôi nhất quyết phải giữ đạo ông bà, vì đó là một trong những giáo dục căn bản của xứ tôi. (Tạ Chí Đại Trường-Tài liệu đã dẫn) Nguyễn Ánh bắt đầu nhận ra âm mưu thâm hiểm của Bá Đa Lộc. Ông đặc cử một số nho thần dạy bảo Hoàng tử Cảnh theo lề lối giáo dục truyền thống dân tộc. Bấy giờ ở Nam hà, thế lực giáo sĩ phương Tây rất mạnh, nhưng họ đều phải im lặng trước thái độ cứng rắn của Nguyễn Ánh, kiên quyết xây dựng một quốc gia thống nhất mọi mặt trên cơ sở truyền thống văn hóa tốt đẹp của dân tộc.
Rất may cho dân tộc Việt Nam, người kế nghiệp Gia Long không phải Hoàng tử Cảnh mà là Minh Mạng, một vua sáng của triều Nguyễn.
Đọc lại sử cũ, chúng ta thấy “Tin bợm, mất bò” là bài học luôn luôn đúng với mọi thời đại. Thời xưa, An Dương vương vì quá “tin” cái nghĩa thông gia thân thiết của bợm Triệu Đà mà mất cả nước, cha con đều rơi vào kết cục bi thảm ! Thời nay, có phải chúng ta lại quá “tin” cái tình anh em đồng chí của Trung Quốc, để mất Hoàng Sa, rồi mười bốn năm sau, mất thêm ba đảo Trường Sa, và bây giờ...???
Dân gian đã nói: “Tin bợm mất bò”. Dân gian lại có câu: “Mất bò mới lo làm chuồng” !
 
Nếu bạn bảo tôi, kẻ viết bài này chỉ hay “lo bò trắng răng” ! Đúng! Tôi chỉ ôn cố tri tân. Và tôi như bạn, tất thảy chúng ta, dẫu nói bò me, hươu vượn thế nào đều phải trông cậy, tin tưởng sách lược đấu tranh sáng suốt của Đảng và Chính phủ, quyết không để một tấc đất, biển, trời Việt Nam bị giặc xâm lược chiếm đoạt.
 HTP-15/7/2014 

Wednesday, 9 July 2014

Tự do học thuật

Nguyễn Hưng Quốc (Blog VOA) 4 July 2014
Ở Việt Nam, những người tranh đấu cho dân chủ thường đặt ra các vấn đề tự do ngôn luận, tự do tôn giáo, tự do thành lập hội đoàn và tự do biểu tình, nhưng lại rất hiếm khi đặt vấn đề tự do học thuật. Cũng ở Việt Nam, hầu như ai cũng thấy nền giáo dục càng ngày càng bị thoái hóa, càng suy đồi cả về chất lượng giảng dạy lẫn tư cách đạo đức từ thầy đến trò, nhưng ít ai nhấn mạnh, ít nhất đối với giáo dục đại học, không có sự thay đổi nào có thể phát huy tác dụng nếu không có tự do học thuật.
Như vậy, tự do học thuật có hai quan hệ chính: Một, đó là nền tảng của giáo dục, đặc biệt giáo dục đại học; và hai, đó cũng là một trong những nền tảng để xây dựng một xã hội dân chủ, đặc biệt ở khía cạnh khoa học và văn hóa, vốn là nền tảng để xây dựng một nền kinh tế hiện đại.
Ở đây, tôi chỉ giới hạn tự do học thuật trong quan hệ với giáo dục đại học.
Ðầu tiên, hầu như ai cũng biết mức độ phát triển của khoa học, kỹ thuật và từ đó, của kinh tế cũng như của xã hội được xây dựng trên nền tảng của giáo dục, đặc biệt giáo dục đại học. Giáo dục ở Mỹ, chẳng hạn, gặp khá nhiều khó khăn ở cấp tiểu học và trung học, nhưng cho đến nay, vẫn rất thành công ở cấp đại học: Theo bất cứ một cuộc điều tra hay xếp hạng nào, những đại học giỏi nhất bao giờ cũng thuộc về Mỹ, và sau đó, thuộc các quốc gia nói tiếng Anh. Khi dẫn đầu ngành giáo dục đại học, Mỹ cũng đồng thời dẫn đầu trên các phương diện nghiên cứu, và từ đó, trong các lãnh vực khoa học kỹ thuật nói chung.
Sự thành công của giáo dục đại học Mỹ cũng như của các quốc gia Tây phương tùy thuộc vào nhiều yếu tố, nhưng trong đó, quan trọng nhất là tự do học thuật.
Trong cái gọi là tự do học thuật ấy có nhiều cấp độ, trước hết và quan trọng hơn hết, là tính chất tự trị và độc lập của các đại học. Chính phủ trợ cấp tài chính cho các đại học nhưng lại hoàn toàn không can thiệp đến, một, nhân sự (bao gồm chức vụ các cấp), hai, chính sách, ba, việc quản lý ngân sách, và bốn, chương trình và nội dung giảng dạy ở các đại học. Không có bất cứ ông/bà bộ trưởng hay thủ tướng hay tổng thống nào có quyền can thiệp vào các sinh hoạt ở đại học. Họ cũng không được quyền lợi dụng ngân sách để gây sức ép lên các đại học hầu biến đại học thành con rối của chính phủ. Tuyệt đối không.
Mức độ thứ hai của cái gọi là tự do học thuật ấy là, trong phạm vi từng trường, bộ máy hành chính (bao gồm từ viện trưởng, viện phó xuống đến khoa trưởng, khoa phó) hầu như hoàn toàn không can thiệp vào chương trình và nội dung giảng dạy của bộ phận chuyên môn (các giáo sư và giảng viên). Tôi xin lấy trường hợp của tôi làm ví dụ cho dễ hiểu. Là chủ nhiệm Ban Việt Ngữ và Việt Học, tôi có toàn quyền trong việc thiết kế chương trình, mở lớp này thay lớp nọ; trong từng lớp, việc dạy gì là tùy thuộc ở tôi. Khi cần mở lớp mới, tôi chỉ cần chứng minh với trường về tính chất khoa học cũng như nhu cầu về kiến thức và, phần nào, nhu cầu “thị trường” của lớp ấy. Vậy thôi. Tuyệt đối không có ai can thiệp phải thêm phần này hay bớt phần nọ. Bộ phận hành chính, nếu muốn đánh giá lớp học nào đó, chỉ căn cứ vào, một, số lượng sinh viên ghi danh, và hai, gần đây, các bản nhận xét của sinh viên vào mỗi cuối học kỳ.
Thấp hơn nữa, trong quan hệ giữa thầy và trò, các thầy cô giáo cũng phải tôn trọng quyền tự do học thuật của các nghiên cứu sinh và sinh viên. Khi hướng dẫn sinh viên làm luận án, tôi chỉ để ý đến vấn đề kiến thức, lý luận và phương pháp luận chứ không can thiệp vào các kết luận: Ðó là công việc của các nghiên cứu sinh. Ðối với bậc cử nhân cũng vậy, ví dụ trong môn Nhiều Nước Việt Nam: Văn Hóa Chiến Tranh và Ký Ức, tôi không quan tâm đến việc sinh viên bênh ai và chống ai. Ðó là quyền tự do của mỗi sinh viên.
Nếu họ ca ngợi Hồ Chí Minh hay đảng cộng sản, tôi cũng không phê phán. Tôi chỉ đòi hỏi hai điều: Kết luận sao cũng được nhưng phải, một, tham khảo đầy đủ, biết cách phân tích và tổng hợp các tài liệu chính liên quan đến đề tài; và hai, chứng minh, với các bằng chứng và lập luận vững chắc, để bênh vực cho quan điểm của mình. Vậy thôi.
Tất cả những điều kể trên không phải là do cá tính hay thói quen làm việc. Mà là một nguyên tắc. Phần lớn các đại học ở Tây phương đều có bản chính sách về tự do học thuật được viết thành văn bản hẳn hoi, trong đó, người ta nhấn mạnh đến quyền tự do của các giáo sư và giảng viên cũng như của sinh viên, đồng thời cũng nhấn mạnh đến trách nhiệm của mỗi người trong việc hành xử các quyền tự do học thuật của mình.
Ở Việt Nam, ngược lại, ngay từ lúc mới giành được chính quyền, đảng cộng sản đã chi phối toàn bộ chương trình và nội dung giáo dục ở đại học. Không kể các trường đại học thời kháng chiến chống Pháp vốn mới manh nha; kể từ lúc cầm quyền ở miền Bắc về sau, bàn tay của đảng hầu như lúc nào cũng thọc sâu vào các sinh hoạt học thuật ở đại học. Tất cả những người tham gia vụ Nhân Văn Giai Phẩm, dù trí thức cao ngất, như Trần Ðức Thảo, Nguyễn Mạnh Tường, Trương Tửu, nếu đi lệch ra ngoài quan điểm chính trị của giới cầm quyền đều bị loại trừ. Ngay cả một số người, mới chỉ là sinh viên, còn rất non trẻ, chỉ vì dính líu một chút vào Nhân Văn Giai Phẩm, vẫn bị đày đọa cả hàng mấy chục năm, như trường hợp của Cao Xuân Hạo, Phan Ngọc và Văn Tâm, v.v…
Gần đây nhất, nổi bật nhất là vụ Trường Ðại Học Sư phạm Hà Nội tước bằng thạc sĩ của nhà văn Nhã Thuyên Ðỗ Thị Thoan chỉ vì, trong luận văn ấy, Nhã Thuyên viết về nhóm Mở Miệng, một nhóm văn học ngoài luồng của một số nhà thơ ở Sài Gòn. Thật ra, đó chỉ là vụ gây ồn ào nhất. Nhưng không phải là duy nhất. Tôi biết, trước đây, có một số người, trong đó, có người từng viết lách và khá có tiếng tăm, xin làm luận văn thạc sĩ về Thanh Tâm Tuyền hay nhóm Sáng Tạo ở Sài Gòn, cũng bị bác bỏ, chỉ với một lý do duy nhất: “nhạy cảm.”
Từ sau vụ Nhã Thuyên, tôi nhận được email của một số sinh viên và nghiên cứu sinh cho biết họ đang gặp khó khăn trong việc làm luận văn về các nhà văn và nhà thơ ở miền Nam trước năm 1975. Trong đó, có hai trường hợp: Một, có người mới nộp đề tài đã bị giáo sư hướng dẫn từ chối chỉ vì lý do “nhạy cảm”; hai, một số người đã bắt đầu từ 1,2 năm trước, viết luận văn sắp xong, nhưng dưới áp lực của nhà trường, cả thầy lẫn trò đều phải thay đổi đề tài để tránh bị chính quyền trừng phạt, như trường hợp của Nhã Thuyên.
Tất cả những sự can thiệp và trả thù … của chính quyền trong lãnh vực học thuật như vậy là một biểu hiện của việc chà đạp lên các quyền căn bản của con người, từ quyền tự do tư tưởng đến quyền tự do thông tin và tự do ngôn luận. Tác hại của những sự chà đạp ấy nhiều và rất nghiêm trọng. Khi học thuật không có tự do, khoa học, cả khoa học xã hội và nhân văn, không thể nào phát triển; khi khoa học không phải triển, người ta không thể có một sự thông thái đích thực, hơn nữa, thậm chí, không thể nâng cao được trình độ dân trí, không phát huy được sức mạnh văn hóa trong việc phát triển kinh tế. Khi cả trình độ dân trí lẫn kinh tế thấp, cả dân tộc, may lắm, chỉ có thể làm những công việc lặt vặt như gia công và lắp ráp cho thế giới.

Saturday, 5 July 2014

Những hứa hẹn Viễn Đông: Tại sao Washington phải tập trung vào châu Á

05-07-2014

Kurt M. Campbell và Ely Ratner
Trần Ngọc Cư dịch
Hoa Kỳ đang bước vào giai đoạn đầu của một đề án quốc gia quan trọng: tái định hướng chính sách đối ngoại của mình để dồn thêm quan tâm và nguồn lực vào khu vực châu Á-Thái Bình Dương. Việc trình bày lại một cách có hệ thống các ưu tiên của Mỹ đang diễn ra trong một giai đoạn mà Mỹ khẩn thiết đánh giá lại các vấn đề chiến lược, sau hơn một thập kỷ lún sâu vào khu vực Nam Á và Trung Đông. 

Việc này đặt cơ sở trên quan niệm cho rằng lịch sử của thế kỷ 21 phần lớn sẽ được viết tại châu Á-Thái Bình Dương, một khu vực sẵn sàng đón chào sự lãnh đạo của Mỹ và sẽ tưởng thưởng cho sự tham gia của Mỹ bằng một lợi nhuận tích cực trên các đầu tư chính trị, kinh tế, và quân sự.
Do đó, chính quyền Obama đang huy động toàn diện một loạt các nỗ lực ngoại giao, kinh tế, và an ninh mệnh danh là “xoay trục” hay “tái quân bình”, hướng về châu Á. Chính sách này xây dựng trên nền móng của hơn một thế kỷ Hoa Kỳ dính líu vào khu vực này, kể cả những biện pháp quan trọng mà các chính quyền Clinton và George W. Bush đã thực hiện; như Tổng thống Barack Obama đã nhận xét đúng đắn: trên thực tế cũng như trong các tuyên bố, Hoa Kỳ đã là một “cường quốc Thái Bình Dương.” Nhưng chiến lược tái quân bình lực lượng mới thật sự nâng địa vị của châu Á lên một tầm có ý nghĩa trong chính sách đối ngoại Mỹ.
Những nghi vấn về mục tiêu và phạm vi ảnh hưởng của đường lối mới này đã xuất hiện ngay sau khi Bộ trưởng Ngoại giao Hillary Clinton đưa ra những điều mà tới nay vẫn còn là tuyên bố rõ ràng nhất về chiến lược này, và bà là người đầu tiên đã dùng từ “xoay trục” trong một bài viết đăng trên tạp chí Foreign Policy năm 2011. Gần ba năm sau, chính quyền Obama vẫn còn đối diện với cái thách đố dai dẳng trong việc giải thích khái niệm này và trong việc thể hiện hứa hẹn của nó. Nhưng bất chấp những tra hỏi gắt gao và những vấp váp ngắn hạn mà chính sách này gặp phải, ít ai hoài nghi về một chuyển biến lớn đang diễn ra. Và dù Washington có muốn hay không, châu Á chắc chắn sẽ thu hút quan tâm và nguồn lực từ Hoa Kỳ, do sự phồn thịnh và ảnh hưởng của khu vực ngày một gia tăng – và do những thách thức to lớn mà khu vực này đang đặt ra. Do đó, vấn đề cần nêu ra ở đây không phải là liệu Hoa Kỳ sẽ quan tâm hơn về châu Á hay không, mà là liệu Hoa Kỳ có đủ sức làm việc này với quyết tâm, nguồn lực, và trí tuệ cần thiết hay không.
ĐI ĐÔNG RỒI XUÔI NAM
Khu vực châu Á-Thái Bình Dương có một sức thu hút không thể cưỡng lại nổi. Khu vực này là quê hương của hơn một nửa dân số thế giới và có một nước dân chủ đông dân nhất thế giới (Ấn Độ), nền kinh tế thứ nhì và nền kinh tế thứ ba (Trung Quốc và Nhật Bản), quốc gia có đa số Hồi giáo đông đảo nhất (Indonesia), và bảy trong mười quân đội lớn nhất. Ngân hàng Phát triển châu Á tiên đoán rằng trước thời điểm giữa thế kỷ này, khu vực này sẽ cho ra một nửa sản lượng kinh tế thế giới và gồm có bốn trong mười nền kinh tế lớn nhất của thế giới (Trung Quốc, Ấn Độ, Indonesia, và Nhật Bản).
Nhưng chính con đường tiến hóa của châu Á, chứ không chỉ mức phát triển chóng mặt của nó, mới làm cho khu vực này trở nên quan trọng đến thế. Theo Freedom House, trong 5 năm qua, châu Á-Thái Bình Dương là khu vực duy nhất trên thế giới đạt tiến độ đều đặn trong việc cải thiện các quyền chính trị và quyền tự do dân sự. Và bất chấp các nghi vấn về khả năng duy trì độ bền vững của mức tăng trưởng kinh tế nhanh chóng tại những thị trường mới nổi [emerging markets], các quốc gia châu Á vẫn tiêu biểu cho một số cơ hội hứa hẹn nhất trong một nền kinh tế toàn cầu sẽ đình đốn và bất ổn nếu thiếu những thị trường này. Đồng thời, châu Á đang phấn đấu trước những nguyên nhân gây bất ổn kinh niên, do các hành động khiêu khích cao độ của Bắc Hàn, do việc gia tăng ngân sách quốc phòng diễn ra khắp khu vực, do các tranh chấp biển đảo gây nhiều lo ngại, khuấy động các quan hệ quốc tế ở biển Hoa Đông và biển Hoa Nam [Biển Đông], và do các mối đe dọa an ninh phi truyền thống như thiên tai, nạn buôn người, và buôn bán ma túy.
Hoa Kỳ có một lợi ích không thể chối cãi trên con đường mà châu Á sẽ đi trong những năm sắp tới. Thị trường này là điểm đến có ưu tiên cao nhất đối với hàng xuất khẩu Mỹ, vượt quá châu Âu hơn 50 phần trăm, theo Phòng Thống kê Hoa Kỳ. Cả vốn trực tiếp đầu tư của Hoa Kỳ tại châu Á lẫn vốn trực tiếp đầu tư của châu Á tại Hoa Kỳ đã tăng gần gấp đôi trong thập kỷ qua, với Trung Quốc, Ấn Độ, Singapore, và Nam Hàn là bốn trong mười nước có vốn đầu tư nước ngoài tăng nhanh nhất tại Hoa Kỳ, theo Phòng Phân tích Kinh tế Hoa Kỳ. Ngoài ra, Hoa Kỳ còn có năm đồng minh với hiệp ước phòng thủ trong khu vực (Australia, Nhật Bản, Philippines, Nam Hàn, và Thái Lan), cũng như các đối tác quan trọng về mặt chiến lược như Brunei, Ấn Độ, Indonesia, Malaysia, New Zealand, Singapore, và Đài Loan, cùng với các quan hệ đang triển khai với Myanmar (còn được gọi Miến Điện). Các căn cứ quan trọng của Hoa Kỳ tại Nhật Bản và Nam Hàn giữ vai trò chủ yếu cho khả năng phóng chiếu quyền lực của Washington tại châu Á và các khu vực lân cận.
Các liên minh quân sự của Hoa Kỳ đã tăng cường an ninh khu vực này qua nhiều thập kỷ, và một trong những mục đích chính của việc xoay trục chiến lược [the pivot] là làm sâu sắc thêm các mối quan hệ đó. Trong những năm gần đây, Washington đã khuyến khích các quốc gia đối tác của mình tại châu Á tìm cách ngăn ngừa xung đột giữa những cường quốc chính, duy trì sự thông thương trên các hải lộ, chống lại chủ nghĩa cực đoan, và đối phó các đe dọa an ninh phi truyền thống. Nhật Bản và Nam Hàn đã đủ tự tin để nhận lãnh những vai trò ngày càng nổi bật trong các hoạt động quân sự hỗn hợp với Hoa Kỳ, và các lực lượng Mỹ đang làm việc với Australia để phát triển các khả năng chiến đấu thủy lục [amphibious capabilities] của mình và với Philippines để tăng cường lực lượng hải giám của nước này. Kết quả sau cùng là những liên minh hùng mạnh hơn và một khu vực an ninh hơn.
Việc này không hề gợi ý về một nỗ lực bao vây ngăn chặn hay làm suy yếu Trung Quốc. Trái lại, phát triển một quan hệ vững vàng hơn và hiệu quả hơn với Bắc Kinh là một mục tiêu chính của chiến lược tái quân bình lực lượng. Không tìm cách bao vây ngăn ngặn Trung Quốc, trong nhiều năm qua Hoa Kỳ đã tìm cách xây dựng một mối quan hệ song phương chín chắn hơn thông qua các cuộc họp thường xuyên ở các cấp cao nhất chưa hề có trước đây về nhiều vấn đề khác nhau liên quan đến các bộ ngành song hành của hai nước. Thậm chí các quan hệ giữa hai quân đội [military-to-military relations] đã trở lại bình thường, lắm lúc đòi hỏi Lầu Năm Góc phải ráng sức đáp ứng các mức độ sinh hoạt do Bắc Kinh đề xuất.
MỘT CHIẾN LƯỢC XOAY TRỤC HƯỚNG VỀ – VÀ NGAY TRONG – CHÂU Á
Chiến lược tái quân bình lực lượng còn đòi hỏi Hoa Kỳ phải tham gia tích cực vào các định chế đa phương của khu vực châu Á-Thái Bình Dương. Dưới chính quyền Obama, Hoa Kỳ đã trở thành thành viên của Thượng đỉnh Đông Á, cuộc họp chính thức hàng năm của nguyên thủ các quốc gia trong khu vực; ký kết Hiệp ước Thân thiện và Hợp tác tại Đông Nam Á, điều này cho thấy cam kết của Mỹ đối với ASEAN sẽ được tăng cường; và cử một đại sứ thường trực tại trụ sở ASEAN ở Jakarta. Mặc dù những định chế trùng lấp lên nhau này có thể gây ra nhiều bức xúc, do tiến độ chậm chạp và các đòi hỏi về đồng thuận của chúng, nhưng chúng có thể thúc đẩy hợp tác khu vực và giúp xây dựng một hệ thống luật lệ và cơ chế để đối phó những thách thức phức tạp xuyên quốc gia. Vào tháng Sáu 2013, chẳng hạn, ASEAN đã đăng cai tổ chức cuộc diễn tập trợ giúp nhân đạo và cứu trợ thiên tai lần đầu tiên, có hơn 3.000 nhân viên từ 18 quốc gia tham dự.
Đồng thời, Mỹ đang đáp lại một thực tế mới mẻ là, khu vực châu Á-Thái Bình Dương càng ngày càng trở thành đầu máy thúc đẩy tăng trưởng kinh tế toàn cầu. Chính quyền Obama đã đẩy mạnh các lợi ích kinh tế của Mỹ bằng cách thực thi Hiệp ước Tự do Mậu dịch Mỹ-Hàn năm 2012 và đang thúc đẩy mạnh mẽ để hoàn tất các cuộc đàm phán về Hiệp định Đối tác Xuyên Thái Bình Dương [TTP], một hiệp ước thương mại tự do giữa 12 nước. Một số nước tham dự các cuộc đàm phán TPP hiện là những thị trường sinh động tại Đông Nam Á, như Malaysia và Singapore, vốn phản ánh tầm quan trọng địa chiến lược đang gia tăng của tiểu khu vực [subregion] này. Thật vậy, chiến lược xoay trục chiến lược của Mỹ hướng về châu Á đã được phụ họa bởi một hành động xoay trục diễn ra bên trong châu Á. Washington đang quân bình sự quan tâm truyền thống dành cho các nước Đông Bắc Á bằng sự quan tâm mới mẻ dành cho các nước Đông Nam Á, như Indonesia, Philippines, và Việt Nam, tìm cách gia tăng thương mại và đầu tư hai chiều với một số nền kinh tế sinh động nhất thế giới. Năm 2010, Washington và Jakarta đã thiết lập một “quan hệ đối tác toàn diện” để củng cố thêm sự hợp tác xuyên qua một loạt vấn đề rộng lớn, gồm y tế, khoa học, công nghệ, và doanh nghiệp.
Một tham vọng tương tự nhằm sắp xếp lại các ưu tiên của Mỹ trong khu vực này giúp giải thích những thay đổi mà Lầu Năm Góc đã thực hiện đối với thế đứng quân sự của mình tại khu vực này. Mặc dù các căn cứ quân sự Mỹ vẫn còn giữ vai trò trung tâm trong khả năng phóng chiếu quyền lực và tham chiến của Washington, nhưng càng ngày chúng càng trở nên dễ bị tấn công làm tê liệt bằng tên lửa, và chúng cũng nằm tương đối xa các vùng có tiềm năng thiên tai và khủng hoảng tại biển Hoa Nam [Biển Đông] và Ấn Độ Dương. Đồng thời, với sự kiện các nước Đông Nam Á đang bày tỏ mong muốn nhận được các chương trình huấn luyện quân sự và trợ giúp chống thiên tai của Mỹ, Hoa Kỳ đã đa dạng hóa sự hiện diện quân sự của mình trong khu vực, bằng cách đồn trú hàng trăm lính thủy đánh bộ Mỹ tại Darwin, Australia, và triển khai hai Tàu Tác chiến Gần bờ [Littoral Combat Ships] tại Singapore.
Những thay đổi này trong thế đứng quân sự của Mỹ đã bị chỉ trích hoặc là khiêu khích hoặc là vô bổ. Cả hai cáo buộc đều không chính xác. Những nỗ lực này không cho thấy Mỹ có hành vi hiếu chiến; chúng đóng góp chủ yếu cho những hoạt động trong thời bình, như phản ứng trước các thiên tai, chứ không đóng góp gì cho những khả năng tham chiến của Mỹ. Và con số có vẻ khiêm nhượng về lính thủy đánh bộ và chiến hạm được triển khai đã che giấu những ích lợi đáng kể mà họ cống hiến cho quân đội của các quốc gia đối tác với Mỹ, vốn là những nước hưởng các cơ hội vô song trong việc diễn tập và huấn luyện chung với các lực lượng Mỹ.
Trong việc xoay trục hướng về châu Á, chính quyền Obama không những tìm cách đẩy mạnh các lợi ích kinh tế và an ninh của Mỹ mà lại còn tìm cách làm sâu sắc thêm các quan hệ văn hóa và quan hệ giữa nhân dân với nhân dân. Chính quyền này còn hi vọng rằng chiến lược xoay trục sẽ giúp Mỹ dễ dàng hậu thuẫn nhân quyền và dân chủ trong khu vực. Đường lối mới này đã đóng góp cho những tiến bộ chính trị tại Myanmar, nơi mà chính phủ đã đi được những bước ngoạn mục, như thả tù chính trị, thực thi các cải tổ kinh tế dù chậm trễ, thúc đẩy nhân quyền và nới rộng tự do báo chí. Mặc dù cần có những biện pháp tiến bộ hơn nữa, đặc biệt trong việc bảo vệ các dân tộc thiểu số, nhưng Myanmar đã nêu một tấm gương sáng ngời của một nước từng kinh qua một thời khép kín, độc tài tàn bạo và đang triển khai những bước chuyển hóa qua chế độ dân chủ. Và ngay từ buổi đầu Hoa Kỳ đã là một đối tác thiết yếu trong nỗ lực cải tổ này.
CHÍNH SÁCH ĐỐI NGOẠI KHÔNG PHẢI LÀ MỘT TRÒ CHƠI BÊN THẮNG BÊN THUA
Những người phản đối việc xoay trục chiến lược đã đưa ra ba lý do phản bác. Thứ nhất, một số người lo ngại rằng việc xoay trục chiến lược sẽ làm Trung Quốc giận dữ một cách không cần thiết.  Lý giải này đã không đếm xỉa đến sự kiện là việc tăng cường đối thoại với Bắc Kinh vốn là một đặc điểm trung tâm và không thể chối cãi của chính sách tái quân bình lực lượng [the rebalancing]. Trong những ví dụ điển hình của đường lối mới này, phải kể đến Đối thoại Chiến lược và Kinh tế Mỹ-Trung [U.S.-China Strategic and Economic Dialogue] hàng năm, đây là một loạt hội nghị toàn diện được bộ trưởng ngoại giao và bộ trưởng tài chánh Mỹ và các quan chức đồng nhiệm Trung Quốc ngồi ghế chủ tọa, và Đối thoại An ninh Chiến lược [the Strategic Security dialogue], qua đó hai nước đã tổ chức các cuộc thảo luận cấp cao chưa từng có trước đây về các vấn đề nhạy cảm như an ninh trên biển và an ninh mạng. Các căng thẳng có thể tăng thêm do sự hiện diện quân sự Mỹ đang gia tăng tại châu Á và do việc Washington mạnh dạn bắt tay với các nước láng giềng của Trung Quốc. Nhưng các quan hệ song phương đang phát triển trong một cung cách khiến bất cứ bất đồng nào do việc xoay trục chiến lược gây ra đều có thể giải quyết trong một bối cảnh rộng lớn hơn của một mối quan hệ Mỹ-Trung ổn định và có tinh thần hợp tác hơn trước.
Phê phán thứ hai đến từ những người tranh luận rằng Washington sẽ thiếu khôn ngoan hay thiếu thực tế khi chuyển trọng tâm chiến lược từ Trung Đông sang châu Á trong khi đang có các xung đột tại Afghanistan và Syria, bất ổn chính trị tại Ai Cập và Iraq, và cuộc đối đầu trường kỳ giữa Iran và các cường quốc phương Tây. Nhưng chỉ trích này chủ yếu là một sự dè bỉu [caricature] đối với chiến lược tái quân bình lực lượng. Theo quan điểm này, Trung Đông và Nam Á đã làm suy yếu quyền lực và uy tín của Mỹ và vì thế việc xoay trục chiến lược thực ra chỉ là một mưu toan tháo chạy bằng cách hướng về những bờ biển hoà bình và dễ sinh lợi hơn của khu vực châu Á-Thái Bình Dương. Đúng là, chính quyền Obama đã cố gắng giảm bớt sự hiện diện của Mỹ tại Trung Đông. Nhưng mặc dù các nguồn lực có giới hạn, chính sách đối ngoại không phải là một trò chơi bên thắng bên thua [a zero-sum game]. Và vì thế, luận điệu chỉ trích cho rằng việc Mỹ chuyển trọng tâm sang châu Á trong một cách nào đó chỉ là một thú nhận về thất bại chiến lược tại Trung Đông đã bỏ qua một thực tế rất quan trọng là: trong thập kỷ qua, chính các nước châu Á, mà hiện nay Washington muốn chú trọng hơn, đã lặng lẽ đóng góp phần mình vào việc duy trì hòa bình và ổn định khắp Trung Đông và Nam Á và chính các nước này cũng rất muốn Mỹ duy trì ảnh hưởng tại các khu vực này.
Trước đây không lâu, hầu hết các quốc gia châu Á chỉ biết quan tâm đến việc phát triển trong nước và coi các vấn đề nước ngoài như là trách nhiệm của một ai khác. Một trong những thành công quan trọng nhất của chính sách châu Á của Tổng thống George W. Bush là khuyến khích các cường quốc đang trỗi dậy của khu vực này đóng góp nhiều hơn cho các nơi khác trên thế giới. Để hưởng ứng một phần nào, trong những năm cầm quyền của Bush, lần đầu tiên, nhiều chính phủ Đông Á đã phát triển một tầm nhìn “ra ngoài khu vực” và tham gia tích cực hơn trong các lãnh vực ngoại giao, phát triển, và an ninh tại Trung Đông và Nam Á. Nhật Bản đã trở thành nước hậu thuẫn dẫn đầu trong nỗ lực phát triển xã hội dân sự tại Afghanistan, tài trợ các trường học và các cơ quan dân sự trong chính phủ và huấn luyện người Afghanistan trong các lãnh vực như pháp lý hình sự, giáo dục, y tế, và nông nghiệp. Trong thời kỳ tiếp theo sau Mùa Xuân Á Rập, Nam Hàn bắt đầu yểm trợ các chương trình phát triển khắp Trung Đông. Indonesia, Malaysia, và Thái Lan đã giúp đỡ vật chất cho các chương trình huấn luyện bác sĩ, cảnh sát, và giáo viên tại Afghanistan và Iraq, trong khi Australia và New Zealand gửi lực lượng đặc biệt đến chiến đấu tại Afghanistan. Thậm chí cả Trung Quốc cũng tích cực hơn trong chính sách ngoại giao ở hậu trường nhằm hạn chế các tham vọng hạt nhân của Iran, đối phó nạn cướp biển, và ảnh hưởng lên tương lai của Afghanistan.
Hẳn nhiên, sự động viên của Washington chỉ là một yếu tố ở đằng sau việc các nước châu Á dính líu ngày càng sâu sắc tại Trung Đông; một yếu tố không thể chối cãi khác là sự thèm khát dầu khí từ Vịnh Ba Tư của các nước này ngày càng gia tăng. Châu Á tiêu thụ khoảng 30 triệu thùng dầu một ngày, nhiều hơn gấp đôi lượng dầu mà EU tiêu thụ. Các chính phủ châu Á biết rằng một cuộc rút lui vội vàng của Mỹ ra khỏi Trung Đông sẽ mang lại nhiều rủi ro không thể chấp nhận đối với an ninh năng lượng và tăng trưởng kinh tế của nước họ. Do đó, họ đã đầu tư vốn liếng chính trị và tài chính đáng kể vào Trung Đông và trong vài trường hợp đã gửi các lực lượng quân sự đến đây trên một thập kỷ qua để bổ sung, chứ không thay thế, vai trò của Mỹ trong việc làm ổn định khu vực. Nói giản dị là, các đối tác châu Á của Mỹ hậu thuẫn việc xoay trục chiến lược nhưng sẽ không hân hoan chào đón viễn cảnh Mỹ rút khỏi Trung Đông – và điều quan trọng là, hình như họ không hề thấy một chút mâu thuẫn nào giữa hai lập trường này.
Luận cứ thứ ba chống lại việc chuyển trục chiến lược liên quan đến tính bền vững của đường lối này trong một thời điểm mà Mỹ phải cắt giảm ngân sách: trong khi chi tiêu quốc phòng giảm sút, những người hoài nghi tự hỏi làm sao Mỹ có thể đầu tư nguồn lực cần thiết để trấn an các đồng minh châu Á của mình và can ngăn các nước thù địch tiềm năng, đặc biệt trong khi quyền lực và ảnh hưởng của Trung Quốc tiếp tục gia tăng. Câu trả lời là, chính sách tái quân bình lực lượng hướng về châu Á sẽ không đòi hỏi một ngân sách mới cực kỳ tốn kém; nói đúng ra, Lầu Năm Góc chỉ cần linh động hơn và tìm cách chi tiêu hiệu quả hơn. Chẳng hạn, trong khi giảm bớt kích cỡ tổng thể của quân đội, Mỹ cần phải duy trì sự hiện diện quân sự tại châu Á và phải đầu tư vào các khả năng hải quân và không quân thích hợp hơn đối với môi trường an ninh của khu vực này. Vì chi tiêu quốc phòng của Mỹ không thể gia tăng đáng kể trong một tương lai gần, Washington cần phải làm nhiều hơn để cải thiện khả năng của các quân đội châu Á, bằng cách tiến hành thêm các trao đổi giáo dục và nghiệp vụ, cải tiến các cuộc diễn tập quân sự đa phương, chuyển giao các thiết bị mà quân lực Mỹ không cần đến nữa, và tham gia tích cực hơn vào việc thảo kế hoạch chung.
VIỆC QUÂN BÌNH GIỮA CÁC QUAN TÂM
Mặc dù các luận cứ thông thường nhất để chống lại chính sách tái quân bình lực lượng không thể đứng vững nếu đem ra khảo sát kỹ lưỡng, nhưng chính sách này đang gặp nhiều thử thách to lớn. Có lẽ thử thách lớn nhất là thiếu vốn nhân sự [human capital]. Sau hơn một thập kỷ chiến tranh và chống nổi dậy, Mỹ đã phát triển và thăng thưởng nguyên cả một thế hệ binh sĩ, các nhà ngoại giao, và chuyên viên tình báo am tường về xung đột chủng tộc tại Iraq, về những bất đồng giữa các bộ tộc tại Afghanistan, về các chiến lược tái thiết hậu chiến, và về các chiến thuật của Lực lượng Đặc biệt Mỹ và máy bay con ong [máy bay oanh kích không người lái]. Nhưng Washington chưa có một nỗ lực tương tự nào nhằm phát triển một đội ngũ chuyên viên châu Á vững vàng trong các ban ngành chính phủ — một con số đáng kinh ngạc gồm các quan chức cao cấp trong chính phủ chỉ mới đi thăm châu Á lần đầu sau khi họ nắm giữ các chức vụ quan trọng ở một giai đoạn họ gần thôi việc. Đây đúng là chỗ yếu kém của ngành ngoại giao Mỹ, vì ngay cả một công chức thành đạt nhất cũng thấy khó khăn khi lèo lái công việc qua các vấn đề phức tạp của châu Á nếu chưa có kinh nghiệm trước tại khu vực này. Chính sách xoay trục chiến lược hướng về châu Á vì thế sẽ ảnh hưởng đến ngân sách của các cơ quan dân sự trong chính phủ, không chỉ riêng cơ quan dân sự của Lầu Năm Góc, khi Mỹ đầu tư nhiều hơn vào các nỗ lực để đảm bảo rằng các nhà ngoại giao, các nhân viên cứu trợ, các nhà thương thuyết mậu dịch, và các chuyên gia tình báo Mỹ có đầy đủ các kỹ năng ngôn ngữ và kinh nghiệm tại châu Á, mà họ sẽ cần đến để thực hiện tốt công tác của mình.
Chính sách xoay trục hướng về châu Á cũng sẽ vật lộn với một loạt khủng hoảng thường xuyên mà các khu vực khác — đặc biệt là Trung Đông — chắc chắn sẽ tiếp tục cung cấp. Đồng thời, sức ép đòi hỏi phải “trở về với công việc nội bộ” dường như chắc chắn sẽ gia tăng. Tiếp theo sau mỗi cuộc chiến mà Mỹ tham gia trong thời hiện đại, từ Thế chiến I đến Chiến tranh vùng Vịnh 1990-1991, công chúng Mỹ gây áp lực lên các nhà chính trị và quan chức chính phủ buộc họ phải tái tập trung vào các vấn đề trong nước. 13 năm chiến tranh vừa qua một lần nữa lại đánh thức bản năng cô lập này, vốn đã được nuôi dưỡng bởi một cuộc phục hồi kinh tế chậm chạp sau khủng hoảng tài chính, khiến nhiều người thất vọng. Mặc dù khuynh hướng quốc tế chủ nghĩa và xu thế đòi hỏi một quốc phòng mạnh vẫn còn tồn tại trong chính trường Mỹ, nhưng có những dấu hiệu tế nhị (và không tế nhị) tại Quốc Hội cho thấy rằng có lẽ Mỹ đang bước vào một kỷ nguyên mới, trong đó việc Mỹ dấn thân vào những cam kết ở nước ngoài – ngay cả tại những vùng trọng yếu đối với sức mạnh kinh tế Mỹ, như châu Á – cũng khó được chấp nhận hơn trước. Những hạn chế chính trị này sẽ làm cho một dự án vốn đã khó khăn trở thành khó khăn hơn: trước các vấn đề châu Á, danh mục những việc Mỹ cần thực hiện tại đây còn dài, không những cho những năm còn lại của chính quyền Obama mà cả cho chính quyền tiếp theo.
NHỮNG ĐỐI TÁC TRONG CHÍNH SÁCH XOAY TRỤC CHIẾN LƯỢC
Tại châu Á, kinh tế và an ninh khu vực là hai vấn đề kết hợp không thể tách rời nhau, do đó Mỹ không thể duy trì vai trò lãnh đạo của mình chỉ bằng sức mạnh quân sự mà thôi. Đó là lý do tại sao việc ký kết thành công Hiệp định Đối tác Xuyên Thái Bình Dương (TPP) — sẽ đòi hỏi những cuộc đàm phán căng thẳng ở nước ngoài và tại Quốc Hội Mỹ — là một ưu tiên hàng đầu. Hiệp định này sẽ nhanh chóng mang lại lợi ích cho kinh tế Mỹ và sẽ khai sinh một hệ thống thương mại lâu dài tại châu Á, một hệ thống không bị chế độ bảo hộ mậu dịch làm trì trệ. Để Hoa Kỳ có thêm sức mạnh đòn bẩy trong các cuộc thương thuyết, Quốc Hội Mỹ phải nhanh chóng phục hồi quyền thúc đẩy thương mại [TPA] bằng đường lối nhanh nhất. Dưới hệ thống này, sau khi thương thuyết xong TPP và các hiệp ước tự do mậu dịch khác, Nhà Trắng có thể đệ trình chúng trước Quốc Hội để lấy phiếu “thuận hay không thuận” [up-or-down votes], theo đó Quốc Hội không thể sửa đổi [amend] hay tranh luận câu giờ nhằm vô hiệu hóa chúng [filibuster]. Chính quyền Obama còn phải tận dụng sự phát triển nhanh chóng của ngành năng lượng Mỹ và tăng tốc việc xuất khẩu khí thiên nhiên ở thể lỏng [liquified natural gas] sang châu Á để cải thiện an ninh năng lượng của các nước đồng minh và đối tác tại đây và để gửi một tín hiệu mạnh mẽ về sự cam kết của Mỹ đối với sự phát triển của khu vực này.
Sự hợp tác luôn luôn được củng cố giữa Washington và Bắc Kinh đã mang lại nhiều kết quả khi hai nước ngày càng phối hợp đường lối của mình đối với Iran và Bắc Hàn đồng thời quản lý các khủng hoảng tiềm năng tại biển Hoa Nam [Biển Đông]. Nhưng Mỹ sẽ gặp nhiều khó khăn hơn khi lèo lái các mối quan hệ với một Trung Quốc đang trỗi dậy mà hiện nay vừa là một “đối tác chiến lược” [a strategic partner], như Tổng thống Bill Clinton mô tả năm 1998, vừa là một “đối thủ chiến lược” [a strategic competitor], như về sau Bush đã gọi.
Những âm mưu của Trung Quốc nhằm thay đổi nguyên trạng lãnh thổ [the territorial status quo] tại biển Hoa Đông và biển Hoa Nam [Biển Đông] – chẳng hạn, bằng cách thiết lập một “khu nhận diện phòng không” tại biển Hoa Đông trùm lên các đảo do Nhật Bản quản lý hành chánh – đang đặt ra một thách thức trước mắt. Mỹ sẽ phải làm rõ với Trung Quốc rằng hành vi xét lại này là không phù hợp với các quan hệ ổn định Mỹ-Trung, lại càng không phù hợp “với loại quan hệ đại cường” mới nhất mà Chủ tịch Tập Cận Bình đã đề xuất với Obama. Gần đây Washington đã đi một bước đúng hướng khi các quan chức cao cấp trong chính quyền công khai chất vấn tính hợp pháp trong những tuyên bố chủ quyền có tính cách bành trướng của Trung Quốc và đưa ra cảnh báo chống lại việc thành lập một khu nhận diện phòng không tại biển Hoa Nam [Biển Đông].
Bên bờ kia của biển Hoa Đông, Thủ tướng Shinzo Abe đang tìm cách lèo lái Nhật Bản ra khỏi nhiều thập niên trì trệ kinh tế và gieo vào đầu óc người dân một ý thức mới mẻ về niềm tự hào và thanh thế của Nhật Bản. Washington sẽ phải tiếp tục thúc đẩy Tokyo hành động tự chế và tránh gây tổn thương, đặc biệt liên quan đến các tranh cãi về quá khứ đế quốc của Nhật Bản. Gần đây, Abe đã đến thăm Đền Yasukuni, nơi thờ một số tử sĩ bị kết án về các tội phạm chiến tranh mà họ đã gây ra trong Thế chiến II. Cuộc thăm viếng này có thể đã giúp ông về mặt chính trị trước một số khối cử tri trong nước, nhưng gây ra những tổn thất lớn trên trường quốc tế: nó nêu lên những nghi vấn tại Washington, làm xấu thêm các quan hệ giữa Nhật Bản và Nam Hàn, đồng thời khiến Trung Quốc trở nên kiên quyết hơn trong thái độ không muốn giao hảo trực tiếp với Nhật Bản chừng nào mà Abe còn cầm quyền.
Giữa bối cảnh ngoại giao căng thẳng này, Mỹ sẽ làm việc với Lực lượng Tự vệ Nhật Bản [tương đương Bộ Quốc phòng] với mục đích là Nhật Bản sẽ đóng một vai trò an ninh tích cực hơn trong khu vực và trên thế giới. Trong nỗ lực này có cả việc chống lại tuyên truyền của Trung Quốc khi họ lên án việc Nhật Bản giải thích lại hiến pháp và hiện đại hóa quân đội là phản động và quân phiệt, mặc dù trên thực tế, đây là những biện pháp hoàn toàn hợp lý – đáng lẽ phải thực hiện từ lâu. Mỹ cũng phải tiếp tục dồn một số vốn chính trị đáng kể cho việc cải thiện quan hệ giữa Nhật Bản và Nam Hàn; vì một quan hệ hữu nghị bền vững hơn giữa hai nước này sẽ có lợi cho việc đương đầu với mối đe dọa to lớn và đang gia tăng do Bắc Hàn đặt ra.
Những thách thức tại Đông Nam Á là hoàn toàn khác hẳn với những thách thức tại Đông Bắc Á, nhưng chúng không kém phần quan trọng đối với các lợi ích quốc gia của Mỹ. Một số nước Đông Nam Á, kể cả Campuchia, Malaysia, Myanmar, và Thái Lan, đang trải qua các mức độ xáo trộn chính trị khác nhau có khả năng thay đổi chính sách đối ngoại của từng nước. Khi khủng hoảng xảy ra, Washington phải tuân theo những nguyên tắc cơ bản về dân chủ và nhân quyền nhưng không làm điều này một cách giáo điều hoặc bằng những cung cách có thể làm suy giảm lợi thế và ảnh hưởng của Mỹ. Thay vì đánh cược vào những phe phái có khả năng nắm quyền lực, đường lối hay nhất của Mỹ sẽ là tập trung vào các vấn đề mà người dân bản xứ cho là quan trọng nhất tại khu vực này bất luận ai là kẻ cầm quyền, những vấn đề như giáo dục, xóa đói giảm nghèo, và đối phó thiên tai.
Ngoài việc gia tăng sự tham dự của Mỹ vào các diễn đàn đa phương tại châu Á, Washington phải hậu thuẫn sự phát triển của một trật tự khu vực dựa vào luật lệ bằng cách đặt toàn bộ trọng lượng của mình đằng sau các nỗ lực sử dụng luật pháp và trọng tài quốc tế để giải quyết các tranh chấp chủ quyền tại biển Hoa Nam [Biển Đông]. Philippines đã đưa yêu sách chủ quyền của mình trong tranh chấp với Trung Quốc ra trước Tòa án Quốc tế về Luật Biển. Mặc dù Mỹ (tạm thời) không đưa ra các phán đoán về giá trị của các yêu sách chủ quyền riêng biệt, nhưng Washington cũng phải đóng góp cho việc xây dựng một đồng thuận quốc tế bằng cách kêu gọi mọi quốc gia công khai hậu thuẫn cơ chế này, vì tòa án về luật biển là một phép thử để xem khu vực này có sẵn sàng quản lý các tranh chấp của mình thông qua các phương tiện pháp lý và hòa bình hay không.
Hoa Kỳ không thể một mình tái quân bình lực lượng hướng về châu Á. Điều thiết yếu là phải kéo theo các nước châu Âu, tức những nước có thể đóng góp đáng kể trong các lãnh vực như luật pháp quốc tế và xây dựng các định chế. Nếu phương hướng chung của các mối quan hệ song phương cho phép, Washington còn phải thăm dò các cơ hội để tìm sự hợp tác tích cực hơn nữa với Ấn Độ và Nga về các vấn đề Đông Á.  Và hẳn nhiên, còn có một yếu tố cần thiết khác là các nước trong khu vực, đặc biệt là các nước Đông Nam Á, phải chứng tỏ vai trò lãnh đạo và sáng kiến của mình để bổ túc cho những nỗ lực của Mỹ. Trọng điểm của chính sách xoay trục hướng về châu Á là duy trì một khu vực cởi mở, hòa bình, và thịnh vượng, trong đó các chính phủ phải dựa vào các luật lệ, qui phạm, và định chế để giải quyết các bất đồng, chứ không sử dụng sức ép và vũ lực. Xoay trục chiến lược là một sáng kiến của Mỹ, nhưng sự thành công nhiên hậu của nó sẽ không hoàn toàn tùy thuộc vào Washington.
KURT M. CAMPBELL là Chủ tịch và Tổng Giám đốc của Asia Group. Từ 2009 đến 2013, ông là Trợ lý Bộ trưởng Ngoại giao Hoa Kỳ đặc trách các Vấn đề Đông Á và Thái Bình Dương. ELY RATNER là Nhà Nghiên cứu Thâm niên và là Phó Giám đốc của Chương trình An ninh châu Á-Thái Bình Dương tại Trung tâm vì một Nền An ninh Mới của Mỹ [the Center for a New American Security].

Thursday, 3 July 2014

Nếu chúng ta muốn

 Theo Vnexpress
Trung Quốc chiếm Hoàng Sa không phải vào ngày hôm qua mà 40 năm trước, khi đó tôi 11 tuổi, là một đứa trẻ nít. Bây giờ tôi 51 tuổi, đã là ông nội; nhà tôi đã có thêm hai thế hệ. Thế mà Hoàng Sa của Việt Nam vẫn còn chưa lấy lại được.
Tại sao chưa lấy lại được? Vì Trung Quốc chưa bao giờ có ý định trả lại Hoàng Sa cho ta. Họ sẽ không bao giờ có ý định trả lại Hoàng Sa, có chăng, họ chỉ muốn lấy thêm.
Trong 40 năm đó, Trung Quốc có những bước tiến dài, đạt được những thành tựu phát triển vô cùng mạnh mẽ, thực sự trở thành cường quốc về kinh tế, khoa học - kỹ thuật, văn hóa, quân sự. Họ cung cấp hàng tiêu dùng và hàng công nghiệp cho cả thế giới. Họ là chủ nợ của cả thế giới, kể cả Mỹ và Nga. Chẳng có nước nào lại không thâm hụt ngoại thương với Trung Quốc.
Họ chế tạo và phóng tàu vũ trụ chở người, đưa xe tự hành lên mặt trăng. Họ chế tạo tàu phá băng điều đến Bắc Cực, Nam Cực, lập các trạm nghiên cứu ở đó. Họ chế tạo tàu lặn lặn xuống đáy biển 7 km. Họ chế tạo máy bay phản lực cạnh tranh với Mỹ và Tây Âu. Họ chế tạo hàng loạt giàn khoan viễn dương, trong đó có “con” Hải Dương 981 gây khó chịu cho ta.
Họ làm chủ kỹ thuật, công nghệ tàu hỏa cao tốc, từ đầu máy, toa xe, đến hạ tầng đường sắt. Đường bộ cao tốc của họ cũng rất phát triển, họ thi công nhanh và rẻ, nhưng chất lượng không tồi. Họ sản xuất xe máy bán ồ ạt sang ta, nhưng các đô thị lớn của họ lại cấm xe máy.
Họ có nhiều nhà khoa học giỏi, cả ở Trung Quốc và ở nước ngoài. Họ có vài nhà văn đạt giải Nobel văn học. Họ làm được những bộ phim với chất lượng nội dung, kỹ thuật điện ảnh đáng nể. Họ có nhiều quan tham, nhưng họ chống tham nhũng cũng rất mạnh tay. Đặc biệt, họ ít có tham nhũng vặt, ép người dân chi tiền ở trường học, bệnh viện, ở phường, trên đường giao thông...
Các doanh nghiệp của họ về cơ bản được hưởng sự đối xử bình đẳng, người dân được động viên khuyến khích làm giàu, ít bị "trấn lột".
Thế nhưng chính Trung Quốc từng chịu nỗi nhục mất lãnh thổ. Thua chiến tranh nha phiến với Anh, họ muối mặt ký Hiệp ước Nanking năm 1842, Hiệp ước Beijing năm 1860, họ trao vĩnh viễn cho Anh đảo Hong Kong và bán đảo Kowloon (Cửu Long). Năm 1898, họ phải ký tiếp với Anh "Công ước mở rộng Hong Kong", cho Anh thuê thêm New Territories (Đất Mới, rộng gấp nhiều lần đảo Hong Kong và khu Kowloon) trong 99 năm. Nhưng khi họ đã mạnh lên, ngày 1/7/1997, họ không chỉ thu lại đất cho thuê New Territories, mà thu hồi luôn đảo Hong Kong và bán đảo Kowloon. Nỗi nhục mất Hong Kong của người Trung Quốc kéo dài 155 năm.
Trung Quốc cũng đã chịu cảnh nghèo hèn, đói khổ trong cuộc Cách mạng Văn hóa, khi họ bắt đầu cải cách kinh tế - xã hội từ thời Đặng Tiểu Bình, điểm xuất phát của họ không khá hơn Việt Nam bao nhiêu.
Sau 40 năm, trong những thành tựu phát triển của Trung Quốc mà tôi viết ở trên, ta đã đạt được những thành tựu gì? Sự nghiệp công nghiệp hóa nước ta đang ở đâu khi nông nghiệp vẫn chiếm gần 70% dân cư Việt Nam và ngoài các công ty FDI gần như không có doanh nghiệp nào sản xuất được hàng hoá đủ tốt, đủ rẻ, đủ nhiều có khả năng cạnh tranh được với hàng hóa Trung Quốc trong và ngoài nước? Ở Trung Quốc, dân cư nông nghiệp hiện nay chỉ còn chiếm 36%.
Nền kinh tế Việt Nam khó mà được chấn hưng, đặt lên đường ray phát triển khi rất nhiều doanh nghiệp trong nền kinh tế này cảm thấy mình kém cỏi, yếu thế và... nản. Ai cũng có thể bắt nạt, làm khó họ, từ cơ quan to đến cơ quan nhỏ. VCCI không sai khi gọi các doanh nghiệp Việt Nam là "đội quân thuyền thúng", làm sao ra được đại dương để "đánh bắt"?
Nền khoa học - kỹ thuật Việt Nam đang ở đâu? Nền giao thông Việt Nam đang ở đâu? Nền giáo dục, y tế Việt Nam đang ở đâu? Nền văn học nghệ thuật Việt Nam đang ở đâu?
Người Việt ta lấy đâu thời gian, đầu óc, năng lượng để kiến tạo phát triển khi mỗi ngày phải chịu bao nhiêu bức xúc trong cuộc sống đời thường, từ chuyện con cái học hành, người nhà đi bệnh viện, khi chen chúc đi lại trên đường bằng xe máy, khi đến các cơ quan công quyền giải quyết các công việc công, tư?
Bao giờ lấy lại được Hoàng Sa? Cùng với sức mạnh của chính nghĩa, tôi nghĩ điều đó còn phụ thuộc vào mỗi một người Việt Nam. Khi nào Việt Nam ta thực sự giàu về kinh tế, mạnh về khoa học - kỹ thuật, giáo dục, văn hóa - nghệ thuật, chính trị, ngoại giao, quốc phòng; "nặng ký" trong các quan hệ song phương, đa phương; khi không nước nào dám bắt nạt nước ta, nước nào cũng muốn quan hệ thân thiện, thuận lợi, cùng có lợi với nước ta.
Còn khi mà tất cả các lĩnh vực của đất nước còn đang yếu kém, mọi điều đều khó nói, tương lai, vận mệnh đất nước khó lường.
Lương Hoài Nam