Wednesday, 24 September 2014

Một ngày tình cờ



Ngày ấy đàn cùng tôi
Chúng ta bên nhau tri kỉ.
Rồi một ngày kia
Xa rời.

Đàn đứt dây
Lăn lóc
Mòn mỏi chờ người,
Người có hay?

Rồi một ngày tình cờ
Người xưa chạm tay vào cây đàn
Lên dây cho nó.
Ngày xuân xưa bỗng dưng
Lững thững trôi về
Tràn đầy tràn đầy.
Người cũ ơi
Lạc bước chốn đâu nơi?




Thursday, 4 September 2014

Hoặc đứng trên đôi chân, hoặc chết. Không bao giờ quỳ gối!

Coppy từ BVN
03/09/2014

(Viết nhân kỉ niệm 100 năm khai trương kênh đào Panama)

Nguyễn Nguyên Bình
Kênh đào Panama khai trương vào ngày 15- 8- 1914, đúng ra phải viết bài và gửi đăng lên mạng vào ngày 15- 8 vừa qua hoặc chí ít cũng phải là trong vòng tháng 8 mới phải, nhưng vừa rồi có vài việc bận nên không kịp hoàn thành bài viết đúng dịp. Hôm nay đã sang tháng 9, muộn rồi mà tôi vẫn muốn đưa đến bạn đọc vài ý tưởng có liên quan, vì sự kiện nước Panama đòi được kênh đào từ tay nước Mỹ đáng để nhắc nhở và suy ngẫm lắm, không nói ra thì thấy tiếc…
Ai cũng biết, kênh Panama có giá trị kinh tế rất lớn, nhờ có nó, con đường biển từ bờ Tây nước Mỹ sang châu Âu rút ngắn được một nửa; đường từ bến Thượng Hải (Trung Quốc) tới New York (Mỹ) rút ngắn được 1/7. (Tuy vậy, để có được thành tựu đó, đã có hơn 25 ngàn người phải hi sinh tính mạng).

Dự án kênh Panama lúc đầu do nước Pháp khởi xướng và thi công, sau bán lại cho Mỹ. Người Mỹ đã khai thác con kênh trong hơn 60 năm, thu vô cùng nhiều lợi nhuận… cho đến khi xuất hiện tướng Ôma Tôrihốt (Omar Torrijos), một người Panama yêu nước, biết coi trọng quyền lợi dân tộc và không theo chủ nghĩa cộng sản. Ông đã làm cho đất nước Panama một việc cực quan trọng, một việc tưởng như không làm nổi. Đó là đã giành lại kênh Panama cho đất nước mình, một nước Panama quá sức “nhược tiểu” so với “người khổng lồ” là Mỹ. Cái cách mà ông Ôma Tôrihôt đã vận dụng để thu hồi kênh Panama thật đáng nể phục, hết sức độc đáo, nó kết hợp đầy đủ sự can đảm và mưu lược của một nhà chính trị, sức mạnh của ý chí quyết tâm, tinh thần đoàn kết của dân tộc và lương tri thời đại. Vì vậy Panama đã giành thắng lợi rất ngoạn mục mà không phải đổ một giọt máu nào.
Quyết giành lại chủ quyền đối với kênh đào, ông đã bí mật tìm cách phân hóa các thế lực tài phiệt Mỹ để vừa có được sự hỗ trợ về tài chính lại vừa có thể làm suy yếu đối thủ. Ông đã đặt vấn đề: “Chúng tôi sẽ lấy lại kênh đào. Song như thế chưa đủ, chúng tôi còn phải làm nên một mô hình. Chúng tôi phải chứng tỏ để không ai có thể nghi ngờ việc chúng tôi đang trăn trở bởi người dân khốn khó của nước mình, rằng chúng tôi quyết tâm giành độc lập không phải vì bị Nga, Trung Quốc hay Cuba giật dây. Chúng tôi phải chứng minh cho thế giới thấy Panama là một xứ sở chuộng lẽ phải, chúng tôi không chống lại Hợp Chúng Quốc Hoa Kỳ, chúng tôi chỉ đấu tranh cho quyền lợi của người nghèo”. Ôma Tôrihôt đã khôn khéo vạch ra rằng việc đòi lại chủ quyền kênh đào Panama không đơn thuần chỉ là pháp lý mà còn là vấn đề đạo lý (trong khi dân Panama nghèo đói thì Mỹ thu lợi từ lệ phí kênh đào mỗi năm hàng trăm triệu đô la Mỹ), nhờ đó nên đã tranh thủ được sự đồng tình của dư luận có lương tri. Theo một phóng sự của tạp chí Time, vào ngày khai mạc cuộc họp Hội đồng Bảo an Liên Hợp Quốc tại Panama (phiên họp này do chính Panama đề nghị triệu tập), Ôma Tôrihốt đã cho dựng một tấm panô cao bằng tòa nhà ba tầng, mang một thông điệp bằng các thứ ngôn ngữ chính thức của Liên Hợp Quốc. Thông điệp viết: “Quý ngài có thể yên chí rằng, trong những cuộc đàm phán của chúng tôi với Hoa Kỳ, quý ngài sẽ luôn luôn thấy chúng tôi hoặc đứng trên hai chân, hoặc chết. Không bao giờ quỳ gối. Không bao giờ! OMAR TORRIJOS”. Cùng với thông điệp nảy lửa như thế, ông Ôma còn tiết lộ với báo chí một kế hoạch phá hủy con kênh nếu Thượng viện Mỹ không chịu phê chuẩn hiệp ước trao trả nó cho Panama.
Sau nhiều vòng đàm phán, Ôma Tôrihôt đã buộc ông Jimmy Carter (Tổng thống Hoa Kỳ) phải ký kết việc trao trả kênh đào cho Panama vào năm 1978 (cũng phải nói rõ thêm là tuy hiệp định đã ký nhưng phía Mỹ vẫn tìm cách trì kéo, mãi đến năm 1999 phía Panama mới được thực sự tiếp quản, dầu sao đó cũng là thắng lợi rất lớn).
Thưa bạn đọc, trong thế kỷ này rõ ràng là còn rất nhiều những việc mà các “nước nhỏ” phải đòi lại chủ quyền lãnh thổ và quyền lợi chính đáng của mình từ tay các “nước lớn” tương tự như Panama hồi cuối thế kỷ trước. Việc Việt Nam ta cần phải đòi lại chủ quyền các đảo và lãnh hải từ tay Trung Quốc, về mặt tương quan lực lượng, cũng chẳng khác là bao so với “cặp đôi” Panama – Mỹ. Cuộc đấu tranh của Việt Nam ngày nay, nếu muốn thu được thắng lợi thì cũng cần phải kết hợp đầy đủ giữa sự can đảm mưu lược của nhà chính trị, ý chí quyết tâm, tinh thần đoàn kết của dân tộc và lương tri thời đại. Ý chí quyết tâm, tinh thần đoàn kết của dân tộc Việt Nam để chống họa ngoại xâm thì lịch sử đã cho thấy là luôn luôn hội đủ, không bao giờ thiếu; lương tri thời đại thì đang trào dâng như sóng Biển Đông. Thậm chí chưa nói đến lương tri, chỉ xét về mặt quyền lợi, thì đã thấy rất nhiều nước trên thế giới đang có cùng mục tiêu chống lại việc Trung Quốc độc chiếm Biển Đông, cưỡng chiếm các đảo và vùng biển của Việt Nam. Vậy Việt Nam chỉ còn thiếu một nhân tố nữa thôi, đó là sự can đảm và mưu lược của các nhà chính trị. Khi nào các nhà chính trị Việt Nam đủ can đảm và mưu lược thì họ sẽ thấy một điều rằng: Trung Quốc đang là nước lớn và mạnh đấy, nhưng không lớn và mạnh hơn nước Mỹ cuối thế kỷ 20; còn Việt Nam đang là nước nhỏ yếu đấy, nhưng không nhỏ yếu hơn Panama cùng thời đó. Vả lại, khi các nhà chính trị Việt Nam đủ can đảm để tỉnh táo nhận biết sức mạnh vốn có của chính dân tộc mình, đất nước mình, quyết tâm đồng hành cùng dân tộc, đồng thời nhìn rõ thời cơ thuận lợi do thời đại đưa tới thì mới có đủ mưu lược để điều trị kẻ bắt nạt. Lúc đó, Việt Nam cũng có thể đòi lại chủ quyền từ tay Trung Quốc mà cũng không cần đổ máu, cũng y như Panama ba mươi sáu năm trước!
Ngày 01- 9- 2014
N. N. B

NGƯỜI BA LẦN TỪ CHỐI CỨU SỐNG MẠNG MÌNH

Coppy FB của Nam Nguyen
(Tặng các vị phụ huynh nhân ngày khai trường của trẻ em)
Yanush Korchak (Janusz Korczak, tên thật là Hendric Goldschmit) - nhà sư phạm, nhà văn, bác sỹ và nhà hoạt động xã hội xuất sắc của Ba Lan, gốc Do Thái. Ông đã ba lần từ chối cứu mạng sống của mình.
Lần đầu tiên đó là lúc Yanush quyết định không di tản sang Palestin, trước khi Ba Lan bị chiếm, để không bỏ rơi “Trại trẻ mồ côi” (do ông thành lập từ 1911 ở Warschau-dành cho trẻ con đường phố không gia đình, chủ yếu là trẻ Do Thái), trước khi các sự kiện kinh khủng của thế chiến 2 xảy ra.
Lần thứ hai-từ chối trốn khỏi "nhà tù lớn" Varsava.
Lần thứ ba, khi tất cả những con người từ “Trại trẻ mồ côi” lên tàu hỏa đi về trại tập trung, có một sỹ quan SS đến hỏi ông:
-Có phải ông đã viết quyển “Ông vua Matiush đệ nhất” không? Tôi đã đọc từ bé, quyển sách rất hay. Ông được tự do!
-Thế còn các cháu?
-trẻ em sẽ phải đi!
-thế thì ông nhầm! Không phải tất cả mọi người đều khốn nạn...
Sau đó vài ngày, tại trại tập trung Treblinka, Korchak cùng với tất cả trẻ em của mình, 196 đúa bé và hơn chục người giúp việc, bảo mẫu... đã đi vào lò hơi ngạt. Trên đường đi ông dắt tay hai cháu bé nhỏ nhất và kể cho chúng câu chuyện cổ tích còn dở, để chúng không để ý gì khác. Cảnh sát Ba Lan (theo phát xít) đứng thành hàng, giơ tay chào, bọn Đức thắc mắc hỏi người đàn ông này là ai, còn bọn họ nhiều kẻ không cầm được nước mắt...
Năm 1978 UNESCO tuyên bố là năm kỷ niệm Janusz Korczak.
Về con người ông, có thể không cần kể thêm gì, ngoài 10 điều răn ông để lại về đề tài giáo dục trẻ em:
1) Đừng chờ đợi con bạn sẽ giống mình, hay sẽ như mình muốn. Hãy giúp trẻ không trở thành bạn, mà là chính mình.
2) Đừng đòi con trẻ trả lại tất cả những gì bạn đã làm cho nó. Bạn cho nó cuộc sống, nó sẽ lại cho sinh linh khác cuộc sống, và cứ tiếp diễn như thế-quy luật bất biến của sự biết ơn.
3) Đừng trút giận lên trẻ em, để tránh ăn trái đắng lúc về già. Vì gieo gì, gặt nấy!
4) Đừng coi thường các vấn đề của trẻ. Mỗi người có một số phận, và hãy tin rằng-cuộc sống của nó cũng sẽ nặng nề không kém, có khi còn hơn ấy chứ, vì trẻ không có kinh nghiệm.
5) Đừng chà đạp!
6) Đừng quên rằng những cuộc gặp gỡ quan trọng nhất của một con người-đó là gặp gỡ trẻ em. Hãy chú ý hơn nữa đến trẻ em-ta không biết đang gặp ai trong hình hài đứa trẻ đâu.
7) Đừng dày vò bản thân, nếu bạn không làm được việc gì đó cho trẻ, đơn giản hãy nhớ rằng: ta chưa làm hết cho trẻ, nếu chưa làm được tất cả mọi thứ trong khả năng!
8) Con trẻ không phải là bạo chúa chiếm đoạt hết cuộc sống của ta,cũng không phải là sản phẩm của thể xác, máu thịt ta. Đấy là một cái bình quý, mà Cuộc sống ban cho ta để giữ và nuôi dưỡng ngọn lửa sáng tạo. Đó là tình yêu được chắp cánh của bố mẹ, những người sẽ nuôi dưỡng không phải con “tôi”, con “chúng ta” mà là một tâm hồn được trao cho ta để gìn giữ.
9) Hãy yêu quý trẻ con nhà khác. Đừng bao giờ làm gì với chúng điều mà ta không muốn người khác làm với con mình.
10) Hãy yêu con mình bất kể nó thế nào-bất tài, không may mắn, đã lớn rồi...Hãy giao lưu với chúng, hãy vui với con trẻ-đó là ngày lễ mà hiện nay ta đang có!
Ước gì tất cả các thầy, cô giáo nước ta cũng đọc qua câu chuyện nhỏ này..
Tham khảo:
-tác phẩm nổi tiếng nhất của ông: "Một mình với Chúa" trong đó có "18 lời cầu nguyện của những kẻ không cầu Chúa".
-sau khi Đức phát xít chiếm Ba Lan, ông vẫn đi lại ở Warshau trong quân phục sỹ quan Ba Lan- ông nói “đối với tôi không có chuyện Đức chiếm Ba Lan, tôi tự hào là sỹ quan quân đội Ba Lan và tôi vẫn làm những việc gì tôi muốn làm”.
-trong trại tập trung ông vẫn tiếp tục giáo dục các trẻ em “của mình”, vẫn chăm lo kiếm cho chúng từ thức ăn đến thuốc men. Trước khi bị hành quyết không lâu, theo tục lệ của người Do Thái, ông tập trung những học trò của mình tại nghĩa địa và làm nghi lễ tuyên thệ, để từng đứa trẻ hứa sẽ lớn lên làm người tốt và người Do Thái lương thiện.
-các học viên của “Trại trẻ mồ côi” của Korczak nhiều người hiện nay vẫn còn sống và ở khắp thế giới...
On 5 or 6 August 1942, German soldiers came to collect the 192 orphans (there is some debate about the actual number: it may have been 196), and about one dozen staff members, to transport them to Treblinka extermination camp. Korczak had been offered sanctuary on the “Aryan side” by Żegota but turned it down repeatedly, saying that he could not abandon his children. On 5 August he again refused offers of sanctuary, insisting that he would go with the children. He stayed with the children all the way until the end.
The children were dressed in their best clothes, and each carried a blue knapsack and a favorite book or toy. Joshua Perle, an eyewitness, described the procession of Korczak and the children through the ghetto to the Umschlagplatz (deportation point to the death camps)
Janusz Korczak was marching, his head bent forward, holding the hand of a child, without a hat, a leather belt around his waist, and wearing high boots. A few nurses were followed by two hundred children, dressed in clean and meticulously cared for clothes, as they were being carried to the altar.
— Joshua Perle, Holocaust Chronicles
According to a popular legend, when the group of orphans finally reached the Umschlagplatz, an SS officer recognized Korczak as the author of one of his favorite children's books and offered to help him escape. By another version, the officer was acting officially, as the Nazi authorities had in mind some kind of "special treatment" for Korczak (some prominent Jews with international reputations got sent to Theresienstadt). Whatever the offer, Korczak once again refused. He boarded the trains with the children and was never heard from again. Korczak's evacuation from the Ghetto is also mentioned in Władysław Szpilman's book The Pianist:
He told the orphans they were going out in to the country, so they ought to be cheerful. At last they would be able to exchange the horrible suffocating city walls for meadows of flowers, streams where they could bathe, woods full of berries and mushrooms. He told them to wear their best clothes, and so they came out into the yard, two by two, nicely dressed and in a happy mood. The little column was led by an SS man...
— Władysław Szpilman, The Pianist
Dr. Janusz Korczak’s children’s home is empty now. A few days ago we all stood at the window and watched the Germans surround the houses. Rows of children, holding each other by their little hands, began to walk out of the doorway. There were tiny tots of two or three years among them, while the oldest ones were perhaps thirteen. Each child carried the little bundle in his hand.
— Mary Berg, The Diary
There is a cenotaph for him at the Okopowa Street Jewish Cemetery in Warsaw, with a monumental sculpture of Korczak leading his children to the trains. Created originally by Mieczysław Smorczewski in 1982,[16] the monument was recast in bronze in 2002. The original was re-erected at the boarding school for children with special needs in Borzęciczki, which is named after Janusz Korczak.
Writings
Korczak's best known writing is his fiction and pedagogy, and his most popular works have been widely translated. His main pedagogical texts have been translated into English, but of his fiction, as of 2012 only two of his novels have been translated into English: King Matt the First and Kaytek the Wizard.
The copyright to all works by Korczak was acquired by The Polish Book Institute as of 8 January 2010.[18] As of late 2011, they have embarked on an initiative to publish or re-publish many of Korczak's books, both in Polish and in other languages