Sunday, 24 August 2014

Tham nhũng – kẻ hủy diệt từ của cải đến tâm hồn

24-08-2014

Nguyễn Quang Thân/ Một thế giới
Nhà văn Nguyễn Quang Thân
Cái nguy hại bậc nhất hơn cả nỗi đau mất của là nạn tham nhũng đã thúc đẩy nhanh sự xuống cấp không phanh của văn hóa và thuần phong mỹ tục, những thứ vô giá phải mất hàng trăm năm gầy dựng nên.
Căm phẫn chống bọn tham nhũng thực chất là tiếng kêu thét xé lòng của người lương thiện bị ăn cắp, trấn lột giữa thanh thiên bạch nhật.

  Từ những vụ cướp bạc tỷ ở những công ty lớn, đến những vụ lặt vặt như ông cảnh sát giao thông “làm luật” vài chục ngàn bạc lẻ. To, nhỏ, lộ hoặc chưa bị lộ, bản chất đều giống nhau: cướp của dân, của nhà nước (thực chất cũng là của dân) về làm của riêng, vinh thân phì gia.
Những người lương thiện bị mất của thì xót xa, nỗi căm giận rất dễ hiểu. Của đau con xót, ai mà không phẫn nộ khi mồ hôi nước mắt chảy vào túi kẻ khác. Của cải xã hội như tấm chăn, có rộng lớn bao nhiêu cũng hữu hạn, người này giàu lên bất chính thì ắt người khác phải nghèo đi.
Nhưng cái nguy hại của tham nhũng không chỉ là chuyện mất của. Văn hóa và văn minh thành thảm hại khi người còng lưng nuôi kẻ ngay, kẻ ngồi mát ăn bát vàng, người lao động lương thiện thì “cơm chan nước mắt”, giật gấu vá vai, vắt mũi bỏ miệng cũng không xong.
Cái nguy hại lớn nhất của tham nhũng không ở chỗ “mất của”. Cũng như trong một gia đình, có bị cháy nhà, bị trộm dọn đồ sạch sành sanh đi nữa thì chí thú làm ăn vài ba năm là có thể phục hồi. Một công ty hay cả một tập đoàn bị tham nhũng làm bại hoại thì bắt nhốt bọn ăn cắp, thay vào người liêm khiết, cơ cấu lại, một thời gian là có thể gượng dậy. Mất mùa, người nông dân chỉ đói năm sáu tháng.
Nhưng một gia đình suy thoái, gia phong, một xã hội suy đồi văn hóa thì không biết bao nhiêu năm, bao nhiêu thập kỷ mới lấy lại được cuộc sống bình thường. Cái nguy hại bậc nhất hơn cả nỗi đau mất của là nạn tham nhũng đã thúc đẩy nhanh sự xuống cấp không phanh của văn hóa và thuần phong mỹ tục, những thứ vô giá phải mất hàng trăm năm gầy dựng nên.
Tham nhũng mà không bị ngăn chặn, trừng phạt kịp thời thì đó là dịch bệnh nguy hiểm dễ lấy nhất hơn cả dịch hạch hay AIDS. Dễ lây vì, nếu thấy hàng xóm, đồng nghiệp không phải lao động cực nhọc mà chỉ bằng mánh lới thi thố bên bàn nhậu làm giàu nhanh như tên lửa thì ắt rất nhiều người muốn học theo, muốn “lây bệnh”, ngày đêm ao ước, chỉ mong được như anh hàng xóm tốt số kia mà thôi.
Tham nhũng có thể làm một cơ quan, một đơn vị không còn hồn vía đâu mà thực hiện công tác, “nhiệm vụ chính trị”, khi những người có quyền chỉ chăm chăm kiếm cách đút túi càng nhiều càng tốt. Nó biến một cơ quan cao quý như một bệnh viện, một trường học hay một tổ chức “chính quyền vì dân” thành nơi kiếm tiền bất chính. Lương y dễ biến thành hổ báo, cô giáo thành mẹ mìn, sếp cơ quan thành bố già giấu mặt, người trí thức thành tay ăn cắp vặt. Hỏi có mấy người giữ được cái lý tưởng mà họ mong theo đuổi ban đầu? Một cơ quan để nạn tham nhũng hoành hành thì mọi ý tưởng cao quý được hóa phép thành đồng tiền nhơ bẩn và thú vui hưởng thụ sa đọa. Tham nhũng không chỉ làm mất của mà còn làm mất cả hồn xã hội.
Tham nhũng làm đảo lộn giá trị được xác lập theo lương tri con người và văn hóa truyền thống. Khi người lao động chân chính bị tước đoạt thành quả mồ hôi (và có khi cả máu) của chính mình thì những kẻ ăn cắp (nếu chưa bị lộ) trở thành những người rao giảng đạo đức. Nếu kéo dài thì chính những kẻ “ăn cắp” này sẽ biến những người lương thiện quanh mình thành trộm cướp, vì nếu họ không chịu “mặc áo giấy” thì sao có thể “đi cùng với ma”? Họ có thể bị đuổi việc, miệt thị hoặc bị gậy ra đường. Không ít kẻ vì không muốn thành kẻ xấu mà mang họa.
 Tham nhũng là đầu mối nguyên nhân sâu xa của mọi tệ nạn xã hội, của bi kịch gia đình. Ai có thể bào chữa nổi cho bọn tham nhũng nếu cho rằng nạn các em gái nông dân phải sớm hủy hoại tuổi xuân, đứng đường bán thân hay gửi tuổi xuân cho những ông chồng tàn phế nước người là nạn nhân của chúng? Những thanh niên hư hỏng sa vào vòng trộm cắp, cướp giật cũng vậy. Trừ rất hiếm kẻ mang gien tội phạm cha truyền con nối, đa số trong những kẻ được coi là trộm cướp này là nạn nhân của nạn cướp bóc trên giấy tờ dự án, trên những chữ ký mua bán quyền lực, những mưu ma chước quỷ mà chính họ cũng như các bạn và tôi đều không thể lần ra được manh mối.
Tham nhũng đẻ ra những dự án vô bổ, hoa hòe hoa sói vẽ rắn thêm chân với mục đích chính là số tiền vàng hay nhà đất được chuyển vào túi tham vô đáy chứ không phải vì quốc kế dân sinh như lời hứa não. Dự án, công trình ra sao, có “làm nghèo đất nước” cũng mặc, miễn là tiền thầy bỏ túi. Nó nhấn chìm mọi sáng kiến, ngăn chặn mọi tiến bộ khoa học, kéo lùi văn minh hàng năm, hàng thập kỷ.
Tham nhũng đưa đồng tiền xã hội vào tay bọn ma giáo, biến chúng thành kẻ đạo đức, thành Tiên, thành Phật. Tiền không có lỗi, chỉ là “vật ngang giá” vô tư. Nhưng mỗi khi tiền ở trong tay bọn tham nhũng thì nó không còn là vật ngang giá nữa mà là thứ vũ khí nhơ bẩn của bọn bất lương, nó khuynh đảo mọi thứ tốt lành thành một nồi cám heo mất kỷ cương, biến tiêu chí công bằng xã hội trên ngọn cờ thành trò cười thảm hại.
Tham nhũng thóa mạ tình yêu cuộc sống, gây ra sự nghi ngờ lẫn nhau và nếu chỉ như thế thôi nó cũng đã trở thành kẻ hủy diệt văn hóa số một.
Tội ác xẩy ra hàng ngày, y tế, giáo dục xuống cấp, khoa học, nghệ thuật trì trệ có nhiều nguyên nhân nhưng hàng đầu là từ nạn tham nhũng. Hãy sáng suốt để tìm ra mối liên hệ đau buồn giữa một cô gái nhảy cầu vì tuyệt vọng, một nông dân phải sang biên giới bán thận lén lút hay một sinh viên vào tù vì mang hộ hàng cấm với một ông kẹ quần áo chỉnh tề, thơm nức ngồi bán chữ ký trong những văn phòng lộng lẫy.   

Thursday, 21 August 2014

Nhìn lại Xung Đột Việt-Trung




21-08-2014

 Nguyễn Quang Dy/Viet-studes 

Tháng 5/2014, Hà Nội nóng bỏng bất thường ngay đầu hè. Rõ ràng Trung Quốc góp phần làm cho trái đất nóng lên. Đặc biệt Biển Đông càng nóng bỏng hơn. Trung Quốc đăt dàn khoan khổng lồ HD 981 taị vùng biển của Việt Nam từ đầu tháng 5 để tranh cướp chủ quyền, thổi bùng lên làn sóng chống Trung Quốc ở Việt Nam và khắp khu vực.


Nghịch lý yêu-ghét trong lịch sử quan hệ Việt-Trung đầy bi kịch thường dẫn đến xung đột lợi ích quốc gia, kể cả chiến tranh. Năm 1979 Trung Quốc đã xâm lược Việt Nam trong cuộc chiến biên giới đẫm máu, sau ba thập kỷ gắn bó như “môi với răng” vì cùng chung ý thức hệ. Liệu lịch sử có lặp lại lần nữa tại Biển Đông? Nước cờ tiếp theo của Trung Quốc là gì? Liệu Trung Quốc có xô đẩy Việt Nam vào vòng tay người Mỹ, giống như vào vòng tay người Nga năm 1979? Việt Nam phải làm gì để có thể sống yên ổn bên cạnh người láng giềng khổng lồ? 
 Bối cảnh lịch sử
Không có bạn thù vĩnh viễn, chỉ có lơi ích vĩnh viễn

 Napoleon Bonaparte đã từng nói, “Trung Quốc là gã khổng lồ đang ngủ. Hãy để cho nó ngủ yên, vì khi thức dậy nó sẽ làm đảo lộn thế giới”. Người Mỹ đã không nghe lời khuyên đó. Họ đã giúp gã khổng lồ trỗi dậy bằng chính sách “can dự xây dựng”. Nhưng họ đã đi quá đà nên bây giờ bắt đầu ân hận, phải tìm cách ngăn chặn sự trỗi dậy hung hăng của nó. Kế hoạch “xoay trục” và TPP (Tran-Pacific Partnership) để “tái cân bằng” sự trỗi dậy của Trung Quốc làm ta nhớ lại thập niên 1950 và 1960 khi Mỹ dùng SEATO (South East Asia Treaty Organization) để ngăn chặn nguy cơ Trung Cộng. Hình như lịch sử đang lặp lại, nhưng với trò chơi mới và luật chơi mới.

 Ông Kissinger được ghi nhận là kiến trúc sư của Chính sách Trung Quốc, đã có công giúp Trung Quốc trỗi dậy, theo tầm nhìn của ông ta về một trật tự thế giới trong đó Trung Quốc liên minh với Mỹ để chống Liên Xô. Ông ta đã bí mật dàn xếp với người Trung Quốc để đưa Tổng thống Nixon sang Trung Quốc bắt tay Mao Chủ tịch và ký Thông cáo chung Thượng Hải (năm 1972). Theo thỏa thuận, Mỹ sẽ bỏ rơi Nam Việt Nam, thỏa hiệp về chủ quyền Đài Loan, hợp tác giúp Trung Quốc thực hiện “bốn hiện đại hóa”, đánh đổi lấy việc Mỹ sẽ rút quân dần khỏi Nam Viêt Nam “trong danh dự”, và lập một liên minh “trên thực tế” chống Liên Xô.

 Sau đó ông Brzezinski (Cố vấn An ninh Quốc gia của Tổng thống Carter) đã tiếp tục Chính sách Trung Quốc bằng thỏa thuận ngầm với ông Đặng Tiểu Bình để Trung Quốc xâm lược Việt Nam (1979) và ngầm ủng hộ Khmer Đỏ trong chính phủ liên hiệp ở Campuchea. Việt Nam đã trở thành con tốt trong ván bài nước lớn bất lương này, bị xô đẩy vào vòng tay người Nga (1978-1979). Như vậy người Trung Quốc phải mang ơn ông Kissinger về cơ hội trỗi dậy, với sự ủng hộ của ông ta và “China Lobby”. Có điều ông Kissinger không biết (hoặc không quan tâm) liệu Trung Quốc có giữ lời hứa sẽ trỗi dậy “trong hòa bình” và không “động tới quyền lợi của Mỹ” và đồng minh của Mỹ ở Đông Á hay không.

 Có lẽ người Mỹ đã hơi ngây thơ hoặc ảo tưởng và ngộ nhận về sự trỗi dậy hòa bình của Trung Quốc mà không tính kỹ những nguy cơ tiềm ẩn. Việc Trung Quốc sẽ trở mặt bắt nạt các nước láng giềng và thách thức Mỹ chỉ là vấn đề thời gian. Ngay cả khi người Mỹ đã “xoay trục” sang Đông Á để ngăn chặn nguy cơ Trung Quốc, dường như họ vẫn chưa thoát ra khỏi cái bóng của ông Kisinger. Những gì đang diễn ra là quá ít và quá muộn để răn đe Trung Quốc và bảo vệ quyền lợi của Mỹ cũng như đồng minh ở khu vực. Người Nhật bây giờ mới tỉnh ngộ và đang vội vã sửa lại hiến pháp để đối phó với Trung Quốc, trong khi các nước khác ở khu vực (như ASEAN) thì hoang mang, bối rối, và bị Trung Quốc phân hóa.   

 Năm 1979, Trung Quốc xâm lược Việt Nam để “dạy một bài học”, sau khi Việt Nam xâm lược Campuchea để đánh Khmer Đỏ là đồng minh của Trung Quốc. Thực chất, Trung Quốc đánh Việt Nam chủ yếu là để gây ấn tượng với người Mỹ rằng Trung Quốc là một đối tác tin cậy trong liên minh chống Liên-Xô và Việt Nam. Đối với ông Đặng Tiểu Bình, sự hỗ trợ của Mỹ để thực hiện “bốn hiện đại hóa” mới là mục tiêu chính để giúp Trung Quốc trỗi dậy. Mọi chuyện khác đều là thứ yếu, chỉ là phương tiện. Đối với lãnh đạo Việt Nam, Trung Quốc trở thành “kẻ thù trực tiếp và nguy hiểm”, nên phải liên minh với Liên Xô để chống Trung Quốc. 

 Phải mất hơn một thập kỷ Việt Nam mới bình thường hóa được quan hệ với Trung Quốc, sau cuộc gặp cấp cao bí mật tại Thành Đô (9/1990) với phương châm “16 chữ vàng” (láng giềng hữu nghị, hợp tác toàn diện, ổn định lâu dài, hướng tới tương lai). Điều này đã diễn ra đúng như lời tiên đoán trước đây của ông Đặng Tiểu Bình là Việt Nam sẽ phải quay đầu lại với Trung Quốc. Lý do chính Việt Nam phải quay lại là bức tường Berlin và chủ nghĩa cộng sản đã xụp đổ, cùng với sự tan rã của Liên Xô. Lãnh đạo Việt Nam đã hoảng hốt lo mất chính quyền, nên vội vã làm lành với lãnh đạo Trung Quốc bằng mọi giá, dù phải hy sinh lợi ích quốc gia sống còn, để cứu vãn một ý thức hệ và thể chế chính trị đã lỗi thời.

 Thỏa thuận Thành Đô là một sai lầm chiến lược to lớn và một bước ngoặt bất hạnh cho Việt Nam, làm cố ngoại trưởng Nguyễn Cơ Thạch phải cay đắng nhận xét, “một thời kỳ bắc thuộc mới đầy nguy hiểm đã bắt đầu”. Lãnh đạo Viêt Nam đã dại dột chui vào bẫy ý thức hệ của Trung Quốc, trở thành con tin để họ thao túng, đến tận bây giờ. Suốt hai thập kỷ tiếp theo, các thế hệ lãnh đạo Việt Nam đã buộc phải theo cam kết Thành Đô, như con tin mắc bẫy, với cái giá phải trả ngày càng cao. Qua nhiều năm, Trung Quốc đã lặng lẽ cài cắm một mạng lưới sâu rộng gồm tay sai và người ủng hộ họ trong nội bộ Việt Nam, từ trung ương đến các địa phương, để tác động vào các quyết sách quan trọng, không chỉ liên quan đến các vấn đề kinh tế và chính trị, mà còn cả quân sự và an ninh. Bản chất quan hệ Viêt-Trung bất bình đẳng, dựa trên lòng trung thành mù quáng về ý thức hệ, là nguyên nhân chính đã kìm hãm cải cách kinh tế và ngăn cản đổi mới chính trị ở Viêt Nam trong suốt hai thập kỷ qua.

 Nay một bước ngoặt mới lại xuất hiện khi Trung Quốc đột nhiên kéo dàn khoan khổng lồ HD 981 đặt tại vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam ở Biển Đông từ đầu tháng 5, làm lãnh đạo Việt Nam bất ngờ, choáng váng, làm xụp đổ ảo tưởng của họ khi Trung Quốc đã công khai trở mặt, vứt bỏ “16 chữ vàng”. Dàn khoan HD 981 không phải chỉ để khoan dầu, mà còn để khẳng định chủ quyền tại vùng biển tranh chấp mà Trung Quốc đơn phương tuyên bố là “lợi ích cốt lõi” của mình. Thực tế dàn khoan HD 981 là một loại “vũ khí dân sự” để cưỡng đoạt chủ quyền, còn hiệu quả hơn cả hàng không mẫu hạm “Liêu Ninh”. Trung Quôc không bỏ lỡ cơ hội Mỹ và các nước NATO đang bận đối phó với Nga về vấn đề Ukraine, để tăng cường hợp tác với Nga vì nhu cầu năng lượng lẫn địa chính trị. Họ học ngay bài học Nga chiếm Crimea như một chuyện đã rồi, để lấn chiếm Biển Đông bằng dàn khoan khổng lồ HD 981, nhằm thử phản ứng của Viêt Nam, ASEAN, Mỹ và các nước khác, chuẩn bị cho nước cờ tiếp theo. 

 Tình hình quốc nội 
Con hổ mới đã biến thành con mèo ốm yếu

 Trong khi Trung Quốc trỗi dậy, trở thành cường quốc kinh tế thứ hai thế giới, thì Việt Nam lại tụt hậu, không cất cánh lên được. Các tổng công ty lớn của nhà nước theo “định hướng XHCN” là trụ cột nền kinh tế, nhưng đã thua lỗ nặng và trở thành những con nợ khổng lồ. Thành quả cải cách kinh tế gần hai thập kỷ đầy ấn tượng nay đã tan thành mây khói, vì nạn tham nhũng, quản lý tồi, và bị các nhóm lợi ích thao túng trong một cơ chế thân hữu. Các nhóm lợi ích tham lam chiếm đất của nông dân làm dự án, câu kết với quan tham và xã hội đen đàn áp dân nghèo, gây nên một làn sóng bất bình khắp nơi, có nguy cơ làm bất ổn định xã hội. Nhiều công nhân tại các doanh nghiệp FDI ở các khu công nghiệp biểu tình đòi tăng lương và cải thiện điều kiện sống, nhưng không được giới chủ đáp ứng tích cực nên đầy bức xúc, dễ bị kẻ xấu lợi dụng kích động gây rối, như các vụ bạo động chống Trung Quốc gần đây đã chứng minh.

 Thất bại kinh tế và bất ổn xã hội đã thúc đẩy nhanh khủng hoảng chính trị và lãnh đạo. Các phe phái cầm quyền tranh giành quyền lực ngày càng quyết liệt, làm phân hóa nội bộ lãnh đạo và tê liệt năng lực quản trị đất nước, tới mức khủng hoảng. Đấu tranh quyền lực quyết liệt giữa phe chính phủ do Thủ tướng đứng đầu với phe đảng do Tổng Bí thư đứng đầu, đã diễn ra tại hầu hết các hội nghị trung ương trong năm 2013, cho tới khi tạm thời lắng xuống vào cuối năm do không phân thắng bại phải hòa hoãn. Nay sự kiện dàn khoan HD 981 và khủng hoảng trong quan hệ Việt-Trung đã làm gia tăng tranh giành quyền lực, có lợi thế cho Thủ tướng (lên tiếng chống Trung Quốc, nên được dân ủng hộ) và bất lợi cho Tổng Bí thư (im hơi lặng tiếng, nên mất lòng dân). Tuy Việt Nam có cơ hội để thay đổi cơ bản, nhưng lãnh đạo lại chia rẽ vì xung đột lợi ích trước sự đe dọa của Trung Quốc.  

 Gần bốn thập kỷ sau chiến tranh Việt Nam, trong khi người Việt và người Mỹ về cơ bản đã hòa giải xong, thì cộng đồng người Việt trong nước và ngoài nước vẫn chưa hòa giải được. Nội chiến thường để lại những vết thương tâm lý và tinh thần sâu nặng hơn. Chừng nào trong lòng còn hận thù và thành kiến, thì không những khó hòa giải, mà còn dễ làm phân hóa cuộc đấu tranh chung cho tự do dân chủ và chủ quyền quốc gia. Những người cộng sản cực đoan là những người độc tài, nhưng những người chống cộng cực đoan cũng chẳng khác gì. Vì vậy, chủ nghĩa cực đoan là kẻ thù tiềm ẩn của hòa giải dân tộc và chấn hưng quốc gia.

 Tình hình quốc tế 
Con sói cô độc

 Việt Nam tuyên bố chính sách đa phương hóa quan hệ và có “đối tác chiến lược” với hơn 10 nước (nhưng chưa có Mỹ). Lúc này, chẳng đối tác chiến lược nào (ngoài Mỹ) có thể giúp Viêt Nam răn đe Trung Quốc để tránh bị bắt nạt. Trước hành động xâm chiếm của Trung Quốc tại Biển Đông, chính phủ nhiều nước tuy bất bình, nhưng không dám công khai ủng hộ Viêt Nam sợ làm mất lòng Trung Quốc. Năm 1979, khi bị Trung Quốc tấn công, Việt Nam có hiệp ước liên minh quân sự với Liên-Xô để răn đe Trung Quốc. Nhưng hiện nay Việt Nam hoàn toàn cô độc, không có liên minh quân sự với một nước nào (khác với quan hệ của Mỹ với Nhật, Hàn Quốc, và Philippines). Viêt Nam đã cố giữ cân bằng quan hệ với Trung Quốc và Mỹ bằng chính sách “Ba Không”: không tham gia liên minh quân sự với nước nào, không cho nước nào đặt căn cứ quân sự, và không dựa vào nước này để chống nước kia. Nếu Việt Nam không thay đổi chính sách cân bằng thụ động này, thì làm sao tự bảo vệ được mình? Viet Nam đang đối mặt với một cuộc khủng hoảng kép: vừa thất bại về kinh tế vừa bị Trung Quốc đe dọa chủ quyền.

 Chính sách “xoay trục” của Mỹ sang Đông Á chưa có hiệu lực răn đe Trung Quốc. Bằng việc đưa dàn khoan HD 981 đến Biển Đông, Trung Quốc đã qua mặt Mỹ, ngay sau khi Tổng thống Obama đến thăm Đông Á. Phản ứng của Mỹ đối với Trung Quốc chưa đủ mạnh, vì Việt Nam khác với Philippines. Quan hệ “đối tác toàn diện” với Mỹ phải nâng lên thành “đối tác chiến lược”, bao gồm bán vũ khí sát thương, tập trận chung, và sử dụng căn cứ quân sự tại Cam Ranh (như Philippines và Singapore đã làm với Mỹ). Nhưng thể chế chính trị độc tài của Viêt Nam, với hồ sơ nhân quyền xấu vì đàn áp tự do dân chủ, là trở ngại chính đối với việc nâng cấp quan hệ với Mỹ. Viêt Nam cũng khó hòa nhập sâu hơn vào thị trường thế giới (WTO và TPP) vì vẫn bám giữ “định hướng XHCN” và chậm chuyển đổi hẳn sang kinh tế trị trường.

 Phản ứng của ASEAN đối với sự kiện HD 981 cũng khá yếu. Hội nghị Thượng đỉnh ASEAN (10/5/2014 tại Myanmar) ra được tuyên bố chung nhưng không dám nêu đích danh Trung Quốc. ASEAN là một tổ chức lỏng lẻo gồm nhiều nước có thành phần đa dạng, dễ bị Trung Quốc phân hóa và vô hiệu hóa. Bó đũa ASEAN đang bị Trung Quốc tách ra để bẻ gãy từng chiếc, nếu không đoàn kết trong một cộng đồng mạnh hơn. Trong nhiều năm, ASEAN đã không ép được Trung Quốc ký COC (quy tắc ứng xử) tại Biển Đông. ASEAN không có cơ chế an ninh tập thể nên không thể can thiệp để bảo vệ các nước thành viên, kể cả khi bị đe dọa.

 Căng thẳng và xung đột trong khu vực đã thúc đẩy nhiều nước chạy đua vũ trang. Việt Nam trở thành khách hàng lớn mua vũ khí của Nga. Nhưng điều này dẫn đến hai nguy cơ lớn: Một là, chi phí quốc phòng tăng lên trong khi kinh tế suy thoái sẽ đặt Viêt Nam vào thế tiến thoái lưỡng nan; Hai là, Việt Nam sẽ bị hở sườn nếu Trung Quốc và Nga nâng cấp đối tác chiến lược để đối phó với Mỹ (như đang diễn ra hiện nay). Nếu Việt Nam nâng cấp quan hệ với Mỹ thành đối tác chiến lược (như dự kiến), thì các hệ thống vũ khí hiện đại mua của Nga có thể không còn an toàn để chống Trung Quốc nữa (đặc biệt là hợp đồng mua 6 tàu ngầm Kilo class 636 và mua thêm 12 máy bay chiến đầu Su-30MK2 còn đang trong quá trình chuyển giao). Vì vậy, việc Mỹ bỏ cấm vận vũ khí sát thương là rất quan trọng đối với Việt Nam lúc này.

 Nước cờ tiếp theo 
Tiếp tục “Tam chủng Chiến pháp”

 Sự kiện Trung Quốc đưa dàn khoan HD 981 vào vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam và bạo loạn chống Trung Quốc tại Bình Dương và Vũng Áng là lời cảnh báo về những tử huyệt của Viêt Nam. Nhưng nếu lãnh đạo Hà Nội vẫn không tỉnh ngộ để tìm cách thoát khỏi cái bẫy ý thức hệ và dũng cảm đối phó với thực tế mới, thì Trung Quốc sẽ tiếp tục thao túng những tử huyệt này để đạt được mục đích, mà chẳng cần chiến tranh.

 Trung Quốc đã lợi dụng tử huyệt của lãnh đạo Viêt Nam để dùng dàn khoan HD 981 lấn chiếm chủ quyền tại Biển Đông như chuyện đã rồi, để thử phản ứng các bên liên quan. Người ta nghi ngờ tay sai của Trung Quốc tại Việt Nam đã ngầm xúi giục công nhân gây bạo loạn tại Bình Dương, Vũng Áng và những nơi khác để Trung Quốc lấy cớ rút người và đầu tư, và để các nhà đầu tư Đài Loan, Hàn Quốc, Nhật Bản sợ không dám đầu tư. Việc này nhằm gây sức ép để chính phủ Việt Nam tiếp tục trấn áp biểu tình chống Trung Quốc. Ngoài ra Trung Quốc có thể dùng những đòn bẩy khác để gây bất ổn cho xã hội Viêt Nam, như dùng mạng lưới tay sai cài cắm trong nội bộ chính quyền và cộng đồng để tác động vào các sự kiện, dùng biện pháp tài chính thương mại để thao túng thị trường, dùng chiến tranh mạng để gây nhiễu, dùng truyền thông để tác động vào dư luận, và dùng công cụ pháp lý để lật lại vấn đề. Đây là một phần của học thuyết “Tam chủng Chiến pháp” (Chiến tranh tâm lý, truyền thông và pháp lý) mà lãnh đạo của họ đã thông qua từ năm 2003. Trong khi chính phủ Việt Nam chưa dám nộp đơn kiện, thì ngày 9/6, Trung Quốc đã bất ngờ đệ trình Tổng Thư ký Liên Hiệp Quốc một tài liệu chính thức về quan điểm đối với tranh chấp tại Biển Đông để lưu chuyển cho tất cả 193 thành viên LHQ.      

 Phản ứng của lãnh đạo Viêt Nam quá chậm và im hơi lặng tiếng, trừ thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đã có những tuyên bố kịp thời và mạnh mẽ về hành động hiếu chiến của Trung Quốc, tại Hội nghị Thượng đỉnh ASEAN ở Myanmar (10/5) và tại Diễn đàn Kinh tế Thế giới về Đông Á ở Manila (22/5), ghi điểm cao và nổi bật trước các đối thủ chính trị khác. Trước mắt, Thủ tướng đã giành lại được sự ủng hộ của dân chúng và chính danh của người lãnh đạo quốc gia cho sứ mạng  bảo vệ chủ quyền. Điều này là thiết yếu trong cuộc chạy đua vào vị trí số một tại Đại Hội Đảng tới. Sự kiện này đã tạo ra một bước ngoặt làm phân hóa nội bộ lãnh đạo Việt Nam, có thể đảo lộn những toan tính trước đó về sắp xếp nhân sự. Đây là cơ hội tốt để Thủ tướng khẳng định vị thế chính trị, và tạo ra những thay đổi cơ bản về chính trị và đối ngoại. Nhưng điều này còn phụ thuộc vào lòng dũng cảm và thành tâm chính trị của người lãnh đạo. . 

 Phản ứng của dân chúng quá nhanh và mạnh. Có lẽ hơi quá bồng bột để “các thế lực thù địch” lợi dụng gây bạo loạn tại Bình Dương, Vũng Áng và các nơi khác, làm mất uy tín Việt Nam và phá hoại nền kinh tế đang khủng hoảng. Nếu chính phủ biết cách khắc phục hậu quả, hy vọng tác động tiêu cực đến đầu tư FDI, như rút người rút vốn, chỉ là nhất thời. Sau lúng túng ban đầu, chính phủ đã có những biện pháp mạnh hơn để đối phó. Nhưng đừng quá mạnh tay với dân chúng và nhẹ tay với bọn đầu sỏ thủ phạm, vì đó là dấu hiệu họ đứng về phía nào. Đây là cơ hội tốt để các lực lượng yêu nước tập hợp, vì hòa giải và đoàn kết dân tộc, để bảo vệ chủ quyền quốc gia. Đây cũng là thời điểm tốt để phe cải cách lật ngược bàn cờ chính trịvà giành lại thế thượng phong. Nhưng sau chuyến thăm của Dương Khiết Trì (18/6/20014), hình như cả hai phái lãnh đạo Việt Nam vẫn lúng túng và bất lực, chưa dám hành động.  

 Tuy phe bảo thủ thân Trung Quốc bị choáng váng, hoang mang và mất thể diện, nhưng họ vẫn nắm quyền quyết định. Việc Ngoại trưởng Phạm Bình Minh phải hoãn chuyến đi Mỹ theo lời mời của Ngoại trưởng John Kerry (22/5), và những phát biểu yếu ớt của Bộ trưởng Quốc phòng Phùng Quang Thanh tại Đối thoại Shangri-La 2014 (30/5) là những tín hiệu xấu, chứng tỏ lãnh đạo Việt Nam vẫn sợ Trung Quốc, tiếp tục duy trì nguyên trạng về ý thức hệ, mặc dù nguy hại cho chủ quyền quốc gia. Một khi Trung Quốc rút dàn khoan và tàu thuyền về, phe bảo thủ sẽ lại hồi phục và thế cân bằng chính trị lại tiếp diễn. Kinh nghiệm cho thấy, chỉ có thể thay đổi cơ bản khi nào dân chúng thoát khỏi nỗi sợ để hòa giải và đoàn kết dân tộc thành sức mạnh nhân dân, tạo sự đột phá bằng quá trình thay đổi từ dưới lên, chứ không phải chỉ từ trên xuống. Giai đoạn Đổi mới (1986-1990) là một bài học về quá trình thay đổi từ trên xuống bị chết yểu khi chính quyền đột nhiên quyết định đóng cửa.

 Phản ứng quốc tế mạnh hơn trước, nhưng chưa đủ mạnh để răn đe Trung Quốc. Không nên ảo tưởng là quốc tế luôn ủng hộ Viêt Nam chống Trung Quốc, vì thế lực Trung Quốc quá lớn và quá mạnh, bàn tay của họ quá dài vươn ra khắp nơi. Viêt Nam phải thay đổi thái độ chính trị để có bộ mặt tử tế hơn Trung Quốc, vì không ai muốn ủng hộ một chế độ độc tài tham nhũng, với hồ sơ nhân quyền quá xấu. Đây là cơ hội tốt để Việt Nam nâng cấp quan hệ với Mỹ thành đối tác chiến lược để đối phó với Trung Quốc. Nhưng đừng quá ảo tưởng vào “lá bài Mỹ” (cũng như “lá bài Nga” trước đây). Chủ trương “xoay trục” và trò chơi TPP của Mỹ còn đang diễn biến. Đối với Washington, Trung Quốc quan trọng hơn nhiều so với Việt Nam. Hơn nữa, Mỹ còn đang sa lầy tại Trung Đông và dính líu tại Ukraine, trong khi phải đối phó với ngân sách quốc phòng bị cắt giảm và xu hướng trong nước muốn co lại. Trong bài diễn văn về đối ngoại dài 9 trang tổng thống Obama đọc tại West Point (28/5/2014) chỉ có mấy dòng mờ nhạt đề cập đến tranh chấp trên biển tại khu vực này, trong đó chỉ nhắc đến Biển Đông và Trung Quốc hai lần, và không nói gì đến Việt nam cũng như dàn khoan của Trung Quốc.    

 Trung Quốc khó có khả năng duy trì quá lâu dàn khoan khổng lồ HD 981 và một đội tàu hộ tống quá lớn tại Biển Đông. Đơn giản là quá tốn kém, dù cho bất kỳ lý do gì. Trung Quốc có thể rút dàn khoan HD 981 vào giữa tháng 8 như dự kiến, hoặc thậm chí sớm hơn nếu đã xong nhiệm vụ, hoặc nếu mùa mưa bão ập đến sớm hơn. Nhưng dù sao, Trung Quốc sẽ không bao giờ bỏ cuộc, và sẽ sử dụng tối đa “chiến thuật dàn khoan”. Họ có thể triển khai thêm nhiều dàn khoan tại những vị trí khác, và ráo riết xây dựng hạ tầng chiến lược tại các bãi đá họ chiếm để đòi “vùng đặc quyền kinh tế”, và “khu vực nhận dạng phòng không”. Trung Quốc sẽ “tùy cơ áp đặt” để từng bước độc chiếm Biển Đông, nhưng tránh đối đầu quân sự với Mỹ. Nước cờ dàn khoan của họ cho thấy nếu xung đột vũ trang xảy ra, nó sẽ xảy ra chớp nhoáng trên biển, với những đòn tấn công chính xác của hải quân và không quân, để phát huy ưu thế, nhằm đảm bảo thắng nhanh để Mỹ không kịp can thiệp. Trận hải chiến tại Gạc Ma năm 1988 là một ví dụ.

 Nhưng khi hạm đội tàu ngầm Viêt Nam gồm 6 chiếc Kilo class 636 được bàn giao và sẵn sàng hoạt động, với 12 máy bay chiến đấu Su-30MK2 mới bổ xung, Trung Quốc sẽ khó tự do tung hoành ở Biển Đông. Đặc biệt, khi quan hệ với Mỹ được nâng cấp thành “đối tác chiến lược”, bao gồm bán vũ khí sát thương và tập trận chung với Hạm đội 7, và nhất là sau khi Nhật Bản chuyển giao đội tàu tuần duyên loại Bizan cho cảnh sát biển Việt Nam, thì tư thế phòng thủ của Viêt Nam ở Biển Đông sẽ được cải thiện đáng kể. Tuy Trung Quốc không muốn xô đẩy Viêt Nam vào vòng tay người Mỹ, nhưng hành động ngang ngược mới của họ có thể làm thay đổi cục diện, dẫn đến những hệ quả không mong muốn.

 Trung Quốc có những phương án khác trong chiến lược vươn ra biển khơi của mình. Nếu lối ra Ấn Độ Dương của họ bị ngăn chặn vì những thay đổi gần đây ở Miến Điện, với sự gia tăng ảnh hưởng của Mỹ tại đây, Trung Quốc phải tìm lối ra Vịnh Thailand và xa hơn nữa. Vì những lý do kinh tế và địa chính trị, Trung Quôc phải kết nối các tỉnh phía Nam với biển khơi bằng một hành lang trong đất liền như một tuyến đường huyết mạch đi qua mấy nước láng giềng, để đối phó với chiến lược “bao vây trên biển” của Mỹ nhằm phong tỏa Trung Quốc tại các điểm yết hầu trên biển. Gần đây, Trung Quốc đã giành được một số dự án lớn ở Lao, Campuchea và Thailand, để xây dựng những cơ sở giao thông và hậu cần có giá trị cao, bao gồm các hệ thống đường sắt, đường cao tốc, đường sông, sân bay, trạm ra đa, hải cảng và kho tàng.

 Việc Trung Quốc triển khai dàn khoan khổng lồ HD 981 và đội tàu hộ tống rất lớn tại đây là một phần của kế hoạch nhằm độc chiếm Biển Đông, và kiểm soát các đường hàng hải huyết mạch, bằng cách triển khai học thuyết A2/AD (anti-access/area-denial) mà Mỹ và các đồng minh rất quan ngại. Gã khổng lồ đói năng lượng tất nhiên thèm khát tài nguyên ở Biển Đông, bao gồm 11 tỷ thùng dầu và 190 nghìn tỷ mét khối (Anh) khí đốt (theo đánh giá của US Energy Information Administration) hoặc 17 tỷ thùng dầu và 498 nghìn tỷ mét khối khí đốt (theo đánh giá của China National Offshore Oil Corporation). Nhưng, Trung Quốc còn muốn kiểm soát cả đường hàng hải, vì hơn 5 nghìn tỷ USD hàng hóa hàng năm phải qua đây (gồm 3/4 số dầu Trung Quốc nhập khẩu và hầu hết số dầu chuyển đến Japan, South Korea, và Taiwan). Vì tất cả hàng hóa của họ vận chuyển bằng đường biển phải qua đây, nên Trung Quốc rất lo ngại chiến lược “Kiểm soát Ngoài khơi” (Offshore Control) của Mỹ nhằm bảo vệ “Vành đai các đảo tiền tiêu” (First Islands Chain) và dùng các điểm yết hầu như eo Malacca hay Lombok để chặn đường xuất nhập khẩu của Trung Quốc. Vì vậy, trong khi Trung Quốc tìm kiếm các con đường bộ khác (qua Lao, Campuchea, Thailand), họ phải kiểm soát bằng được Biển Đông.

 Điều một dàn khoan trị giá gần một tỷ đô la đến Biển Đông, với hơn một trăm tàu hộ tống các loại vây quanh trong mấy tháng liền, chi phí mỗi ngày gần một triệu đô la, Trung Quốc không chỉ nhằm một mục đích. Nếu không phải chủ yếu để khoan dầu như dư luận nghi vấn, thì nó phải có một nhiệm vụ gì khác quan trọng hơn. Dàn khoan này có thể được dùng để đánh lạc hướng dư luận trong khi họ lặng lẽ xây dựng đảo nhân tạo và căn cứ quân sự tại các bãi đá ở Trường Sa, nhằm áp đặt “đường lưỡi bò” (như chuyện đã rồi), tuyên bố “khu vực nhận dạng phòng không” (ADIZ) và đòi “vùng đặc quyền kinh tế” (EEZ) như tại Hoàng Sa. Nếu đúng Trung Quốc đang đóng thêm một dàn khoan khổng lồ thứ hai (HD 982) như tin đồn, thì việc sử dụng dàn khoan khổng lồ có công năng kép này chứng tỏ là một công cụ chiến lược hiệu quả, vừa để khoan dầu vừa để khẳng định chủ quyền. 

 Vì vậy, điều quan trọng là phải quan sát thật kỹ xem Trung Quốc đang lặng lẽ làm gì tại các địa điểm chiến lược khác ở Biển Đông, cũng như ở Viet Nam, Lào, Campuchea, và Thailand (từ sau đảo chính). Các công trình đang được xây dựng ở Trường Sa (như đường băng trên bãi đá Gac Ma, đảo nhân tạo và căn cứ quân sự trên bãi đá Chữ Thập) sẽ được kết nối với căn cứ hải quân Du Lâm tại đảo Hải Nam và đảo Tam Sa tại Hoàng Sa. Theo đường chim bay, căn cứ Du Lâm chỉ cách đặc khu kinh tế Vũng Áng hơn 350km. Mấy nghìn công nhân Trung Quốc đang làm việc tại Vũng Áng (Hà Tĩnh, Miền Trung), tại dự án Bô xít Tân Rai và Nhân Cơ (Tây Nguyên) là một rủi ro lớn về an ninh. Nếu có chiến sự, Trung Quốc dễ dàng cắt đôi Việt Nam tại điểm xung yếu này. Về phía Tây có tuyến đường sắt cao tốc Côn Minh-Vientiane (Lào), các căn cứ tại Koh Kong và Bokor (Campuchea), kênh đào Kra Isthmus (Thailand). Một khi các cơ sở chiến lược này hoàn thành và được kết nối, thì Trung Quốc có thể vô hiệu hóa kế hoạch “xoay trục” của Mỹ nhằm ngăn chặn Trung Quốc, và dễ dàng khống chế Việt Nam. Họ chỉ cần hăm dọa, cưỡng ép và bắt chẹt cũng đạt được mục đích, mà không cần phải đánh, vì lúc đó mọi sự kháng cự của Việt Nam là quá yếu ớt và quá muộn…

 Năm 1973 “cú sốc dầu hỏa” làm Nhật Bản được một bài học nhớ đời, phải vội vã điều chỉnh chiến lược năng lượng, nên bị thiên hạ gọi là “quái vật kinh tế”. Trung Quốc học bài rất nhanh, đã kịp thời bắt tay với Nga gần đây để đảm bảo nguồn cung cấp năng lượng và lá bài địa chính trị trong trò chơi nước lớn mới. Trong khi đó, Trung Quốc đã triển khai hung hăng hơn tại Biển Đông để tranh thủ giành lợi thế do khoảng trống quyền lực tại đây vì ASEAN yếu và phân hóa, còn Mỹ và các đồng minh đều vướng các vấn đề khác nên không thể hành động quyết đoán. Đây là nước cờ có tính toán nhưng rất nguy hiểm vì Trung Quốc không chỉ là một “quái vật kinh tế” khổng lồ đã vượt qua Nhật Bản, mà còn là một “quái vật được vũ trang” đầy tham vọng, sẵn sàng thách thức các quyền lợi toàn cầu của Mỹ. Họ không còn đủ kiên nhẫn để chơi theo luật chơi cũ. “Cú sốc dàn khoan” này là một lời cảnh báo và một bước ngoặt mới, không chỉ đối với Việt Nam mà cho toàn khu vực. Dù có kiềm chế, khả năng xảy ra xung đột vũ trang do sai sót kỹ thuật hay con người, hoặc do trục trặc về truyền thông là rất lớn. 

 Làm thế nào để “thoát Trung” 
Phản tỉnh dể thoát khỏi cái bẫy ý thức hệ

 Quan hệ Viêt-Trung phải dựa trên nguyên tắc bình đẳng, tôn trọng lẫn nhau và hai bên cùng có lợi. Nhưng thực tế điều này không thể có giữa một nước nhỏ yếu với một láng giềng khổng lồ, lại có truyền thống bá quyền đại Hán. Cách duy nhất là Việt Nam phải độc lập và đủ mạnh để răn đe đối với Trung Quốc (như Israel đối với các láng giềng lớn hơn).

 Nhưng muốn độc lập và mạnh, trước hết phải “thoát Trung” vì cái bẫy ý thức hệ đã trói buộc và kìm hãm Viêt Nam trong hơn một nửa thế kỷ. Cơ hội “thoát Trung” tốt nhất là khi Trung Quốc bi khủng hoảng và suy yếu (như thời Cách mạng Văn hóa). Mô hình Trung Quốc trước đây đã thất bại (như đại nhảy vọt) và sắp tới cũng không thể thành công (như Giấc mộng Trung Hoa), trừ phi có thay đổi chính trị cơ bản (điều này rất khó). Đó là nghịch lý phát triển kiểu Trung Quốc. Gordon Chang dự đoán “Trung Quốc sắp xụp đổ” trong khi Paul Krugman xác nhận “Trung Quốc đang gặp rắc rối lớn”, vì đã đến điểm giới hạn. Ngày phán quyết của họ đang đến gần. Vậy tại sao Việt Nam cứ đi theo Trung Quốc?   

 Muốn “thoát Trung”, trước hết Việt Nam phải đổi mới tư duy, từ “trong cái hộp” phải tư duy “ngoài cái hộp”. Người Việt phải học hỏi kinh nghiệm “thoát Á” của người Nhật dưới thời Minh trị, theo tư tưởng đổi mới vĩ đại của Fukuzawa Yukichi (1835-1901). Những nước Đông Á nào quyết tâm đổi mới tư duy để hiện đại hóa đất nước, đều trở thành cường thịnh và có sức sống (như Nhật Bản, Hàn Quốc). Chỉ 2 hay 3 thập kỷ sau chiến tranh bị tàn phá lớn, họ đã chấn hưng được đất nước, trở thành cường quốc kinh tế hàng đầu thế giới.

 Trong hơn một nửa thế kỷ qua, Viêt Nam đã xa lầy vào quỹ đạo ý thức hệ Trung Quốc hai lần. Lần thứ nhất là từ khi biên giới hai nước thông thương (1950) để hai bên “núi liền núi, sông liền sông”, gắn bó như “môi với răng”, và để chủ nghĩa Mao tràn vào Viêt Nam, gây bao đại họa (như cải cách ruộng đất, tập thể hóa nông nghiệp, đàn áp phong trào nhân văn Giai phẩm…). Lần thứ hai là tại gặp gỡ cấp cao Thành Đô (9/1990) khi hai “anh em tử thù” lại đột nhiên ôm chầm lấy nhau như các đồng chí “bốn tốt” với phương châm “16 chữ vàng”. Việt Nam đã bình thường hóa quan hệ với Trung Quốc một cách “bất bình thường”, dại dột tự chui đầu vào cái bẫy ý thức hệ của Trung Quốc, để bây giờ mới vỡ mộng khi Trung Quốc công khai lộ bộ mặt thật. Hệ lụy nặng nề của sai lầm to lớn tại Thành Đô đã được cố ngoại trưởng Nguyễn Cơ Thạch dự báo, nay đang diễn ra tại Biển Đông và những nơi khác.  

 Giữa hai kinh nghiệm thảm họa đó khi Viêt Nam đi theo quỹ đạo Trung Quốc, thì Viêt Nam đã cố “thoát Trung” một lần sau năm 1975, khi Viêt Nam xâm lược Campuchea để đánh Khmer Đỏ là đồng minh của Trung Quốc (12/1978), và đánh trả Trung Quốc xâm lược Viêt Nam để “dạy bài học” (2/1979). Viêt Nam đã coi Trung Quốc như “kẻ thù trực tiếp và nguy hiểm”, thậm chí ghi cả điều đó vào Hiến pháp (1980) và Cương lĩnh Đảng (1982). Viêt Nam đã mắc sai lầm chiến lược to lớn, sập bẫy của Trung Quốc, bị cô lập với thế giới (trừ Liên Xô), và xa lầy tại Campuchea. Viêt Nam đã cố “thoát Trung” một cách lầm lẫn: chống Trung Quốc (nhưng vẫn giữ nguyên ý thức hệ), chủ quan (tưởng Liên Xô là thành trì vững chắc) và ngây thơ (đối đầu với Trung Quốc khi họ đã bắt tay được với Mỹ).

 Nay nếu Viêt Nam định “thoát Trung” bằng cách đi đêm với Mỹ như đối tác chiến lược để chống Trung Quốc, trong khi không chịu từ bỏ ý thức hệ đã lỗi thời, thì sẽ lặp lại sai lầm. Viêt Nam chỉ có thể dựa vào Mỹ để “căn bằng” với Trung Quốc, chứ không thể “đối đầu” với họ. Chỉ có thể “thoát Trung” về ý thức hệ, chứ không thể “thoát Trung” về địa chính trị. Về lâu dài, người Việt phải sống khiêm tốn, tử tế, tương kính với người Hoa như những láng giềng thân thiện, cùng nhau đổi mới kinh tế và chính trị, xây dựng một xã hội khá giả và dân chủ. Độc tài và tham nhũng là kẻ thù chung của hai dân tộc. Vì vậy, muốn “thoát Trung” trước hết phải phản tỉnh để thoát khỏi ý thức hệ đã lỗi thời, là nguyên nhân chính dẫn đến mọi tai họa.

 Làm thế nào để sống bên cạnh Trung Quốc? 
Phải thay đổi hoặc mất hết.

 Nhìn lại quá khứ với những bài học đau đớn, Viêt Nam phải làm thế nào để sống được bên cạnh một nước láng giềng khổng lồ có truyền thống bá quyền đại Hán (như Trung Quốc)?

 Thứ nhất, lãnh đạo của nước nhỏ hơn phải giỏi hơn về thuật trị quốc, để nước láng giêng lớn hơn không dễ bắt nạt. Để có lãnh đạo giỏi, phải biết trọng dụng nhân tài, không phân biệt và kỳ thị nguồn gốc, như người Đức trọng dụng bà Angela Markel gốc Đông Đức hay ông Philipp Koeller gốc Việt. Lãnh đạo quốc gia phải vì lợi ích dân tộc, chứ không vì lợi ích nhóm hay cá nhân. Nếu lãnh đạo chạy chức chạy quyền không theo luật pháp, thì các quan tham sẽ vơ vét tài sản quốc gia làm giàu cho mình, làm đất nước khánh kiệt.  

 Thứ hai, dân trí của nước nhỏ hơn phải cao hơn trong một xã hội dân sự, để nước láng giềng lớn hơn không dễ lừa gạt. Phải khai tâm khai trí cho dân, và phải tôn trọng quyền tự do dân chủ của người dân. Đất nước không thể có nhân tài nếu người dân không được suy nghĩ sáng tạo và tự do tư tưởng. Không thể phát huy được nội lực quốc gia để dựng nước và giữ nước nếu không có hòa giải dân tộc và xã hội dân sự.

 Thứ ba, tiềm lực kinh tế và quốc phòng của nước nhỏ hơn phải có chất lượng cao hơn, để nước láng giềng lớn hơn không dễ áp đặt. Trong quá trình dựng nước, phải học bài học “quốc gia khởi nghiệp” của Israel, và kinh nghiệm phục hồi kinh tế sau chiến tranh của Đức, Nhật và Hàn Quốc. Mặc dù Nhật và Đức thua trận phải đầu hàng, nhưng chỉ hai-ba thập kỷ sau chiến tranh, họ đã phục hồi, trở thành cường quốc kinh tế đứng thứ hai và thứ ba thế giới. Trong khi đó Việt Nam tuy thắng trận, nhưng bốn thập kỷ sau chiến tranh, đất nươc vẫn nghèo nàn lạc hậu và lệ thuộc. Muốn phát triển kinh tế bền vững, phải đổi mới thể chế chính trị, để hậu thuẫn cho cải cách kinh tế và đổi mới công nghệ.

 Thứ tư, quan hệ đối tác chiến lược của nước nhỏ hơn phải đủ mạnh để răn đe tham vọng bá quyền của nước láng giềng lớn. Hiện nay, Viêt Nam có rất ít sự lựa chọn và rất ít thời gian, không thể tiếp tục bắt cá hai tay để cân bằng quan hệ với cả Trung Quốc và Mỹ. Sự kiện dàn khoan HD 981 là một bài học. Trong thế giới đa cực ngày nay, quan hệ đối tác chiến lược không còn phụ thuộc vào ý thức hệ mà chỉ dựa vào lợi ích quốc gia và địa chính trị. Nếu Viêt Nam không chịu thay đổi tư duy thì sẽ trở thành tù binh của quá khứ, và thất bại. 

 Nếu thiếu hụt những yếu tố trên, Viêt Nam dễ trở thành mồi ngon của chủ nghĩa bá quyền đại Hán. Nguy cơ bắc thuộc ngày càng lớn lên cùng sự trỗi dậy của Trung Quốc và tụt hậu của Viêt Nam. Để giữ độc lập và chủ quyền quốc gia, người Việt cần phản tỉnh để thoát khỏi cái bẫy ý thức hệ và cải cách thể chế chính trị. Đã đến lúc phải thay đổi hoặc mất hết. 

 NQD, 6/2014

(Nguyen Quang Dy is a Harvard Nieman Fellow, 1993).

 Theo Viet- studies
......................................
References:

 1. Peril of Pride and Prejudice, Philip Bowring, South China Morning Post, May 14, 2014

2. Beijing’s actions in the South China Sea demand a U.S. response, Elizabeth Economy and Michael Levi, World Policy, May 15, 2014

3. China’s Push in South China Sea Divides the Region, Murray Hiebert, CSIS, May 16, 2014

4. Hot oil on troubled waters, Economist, May 17th 2014 |

5. Vài Đánh giá Ban đầu về Cuộc Xung đột Viêt-Trung Hiện nay (Initial Assessments on Sino-Vietnamese Conflict now), Trần Ngân, Viet-Studies, May 18, 2014

6. China Miscalculates with its Drill Rig, Bill Hayton, Asia Sentinel, May 19, 2014

7. Mồi lửa & Đống củi (The Sparks & the Firewood), Huy Đức, Viet-Studies, May19, 2014

8. Xi Jinping’s Excellent adventure: A Calibrated Takeover of South China Sea, Nayan Chanda, Yale Global online, May 20, 2014. 

9. Kịch bản Chiến tranh Viêt- Trung (Scenarios of a Sino-Vietnamese War), BBC interviewed Carl Thayer, May 22, 2014

10. Vietnam Won’t be Pushed Around by China, H.D.S. Greenway, Boston Globe, May 25, 2014

11. Vụ Khoan dầu khiến Việt Nam Đi Trên Lộ trình Mới (China oil rig set Vietnam on a new direction), Người Việt interviewed Jonathan London, May 28, 2014

12. Vietnam: Turning Point, David Brown, Asia Sentinel, June 2, 2014

Tuesday, 19 August 2014

Sự khác nhau trong văn hóa ứng xử giữa Sài Gòn và Hà Nội

coppy từ Góc nhìn Alan
wtt-hanoisaigon-5001
Theo Mặc Lâm RFA – 19/7/2014
Từ nhiều năm qua báo chí thường xuyên nhắc nhở tới cách ứng xử của người dân qua những hành xử thông thường nơi công cộng hoặc các hành động mang tính văn hóa giữa cộng đồng.
Những bài viết này luôn nhận được phản hồi tích cực từ người đọc nhất là nơi bị chỉ trích tuy nhiên sau khi tờ báo được cất hay cũ đi, tất cả mọi thứ trở về với trạng thái cũ, tức là cảnh gấu ó ngoài đường, tranh giành nhau một chỗ đứng, sẵn sàng buông ra lời tục tĩu nếu một người nào đó vô ý đụng chạm tới thân thể hay tài sản của mình. Tất cả những thứ ấy được gói gọn vào bốn chữ văn hóa ứng xử, cụm từ mà trước đây vài chục năm không ai cảm thấy cần phải bàn tới.
Một nếp gấp lớn
Giáo Sư Nguyễn Đăng Hưng một Việt kiều Bỉ không ngạc nhiên khi báo chí đặt vấn đề sự khác nhau trong văn hóa ứng xử giữa Sài Gòn và Hà Nội. Có một nếp gấp rất lớn giữa hai thành phố mặc dù cùng là người Việt như nhau:
“Tôi thấy những nhận xét ấy không sai đâu. Chính bản thân tôi khi về Việt Nam thì tôi cũng có lớp đào tạo tại Hà Nội cũng như trung tâm đào tạo tại Sài Gòn. Hai mươi năm gần đây thường thường mỗi năm tôi về Việt Nam ở Hà Nội thì hai lần mỗi lần ba tuần. Ở Sài Gòn tôi cũng về hai lần mỗi lần một tháng. Quê tôi ở miền Trung nên toàn bộ nước Việt Nam tôi đều không những bước chân tới mà còn hào mình với nhân dân các vùng.
Phải nói rằng cái văn hóa thanh lịch của Tràng An phải thừa nhận rằng tại Hà Nội chính bản thân tôi cũng rất ngạc nhiên vì không như mình đã tưởng tượng mà nó đã mất đi cái sắc thái chốn kinh kỳ, văn hóa Tràng An của dân tộc Việt nó mất đi bản sắc rất nhiều.”
Lý do tại vì cái văn hóa dân tộc, văn hóa truyền thống bị phai nhạt bởi chính sách, cơ chế của nhà nước nó bài bác nó coi những văn hóa đó là sản phẩm của thời kỳ phong kiến, thời kỳ tiểu tư sản.
-GS Nguyễn Đăng Hưng

Tại miền Nam, nền văn hóa phương Tây đã vào theo cùng với bước chân thực dân Pháp. Cung cách đi đứng, ăn nói cũng như đối xử với người khác dần dần ăn sâu vào tính cách người Việt qua sự chung đụng với nhau trong xã hội. Trẻ em tới trường được thầy cô giáo dạy dỗ trước tiên là sự kính trên nhường dưới rồi sau đó mới tới việc tiếp thu các bài học vỡ lòng. Học sinh được cấy vào tâm hồn trong trắng thứ giáo dục nhân bản và sau nhiều năm ngồi trên ghế nhà trường, cách ứng xử phải phép đã hình thành một cách tự nhiên trong đời sống hàng ngày và cả xã hội làm theo một cách vô thức. Người miền Nam có cái may mắn ấy và Sài Gòn là nơi bộc lộ tính cách văn minh rõ rệt nhất.
Trong khi đó miền Bắc lại không may mắn như thế. Suốt nhiều năm sống trong chiến tranh, mọi tinh hoa từ thời Pháp để lại đều bị triệt hạ. Mọi cung cách trang nhã đều bị lên án, mọi cử chỉ trịnh trọng được xem là bắt chước bọn sen đầm. Cả xã hội quay cuồng với chủ nghĩa cộng sản vốn thù hằn gay gắt trí thức tiểu tư sản. Giai cấp tiều tư sản chính là thành phần thu nhận văn hóa tây phương một cách triệt để và ảnh hưởng của nền văn hóa ấy đã tạo nên một tầng lớp tinh hoa hay ít nhất cũng đáng được gọi là có văn hóa theo nghĩa rộng nhất.
Giáo sư Nguyễn Đăng Hưng nhận xét về điều mà ông gọi là nền văn hóa bị thế chấp:
“Lý do tại vì cái văn hóa dân tộc, văn hóa truyền thống bị phai nhạt bởi chính sách, cơ chế của nhà nước nó bài bác nó coi những văn hóa đó là sản phẩm của thời kỳ phong kiến, thời kỳ tiểu tư sản. Thời kỳ văn hóa du nhập từ Tây phương cho nên họ bài bác và họ lại đem những văn hóa khác để thế chấp. Những văn hóa này hơi thô kệch, giản dị vê những quan niệm ứng xử nó phát xuất từ Trung Quốc và có thề phần nào ở Liên Xô thời trước.”
Nếu các nước trong khu vực tỏ ra ngày một gần hơn với văn hóa ứng xử Tây phương thì Việt Nam do hoàn cảnh lịch sử lại chọn Trung Quốc và Liên xô cũ để làm điểm tựa. Nếu nhiều ngàn năm sống trong không khí Khổng Mạnh người Việt không hề bị đồng hóa thì chỉ chưa đầy 80 năm sống gần với văn hóa “lợi ích cốt lõi” của người Tàu, không ít người Việt tại miền Bắc đã bị biến dạng. Họ không nói hay viết tiếng Tàu nhưng cách đi lại nói năng hầu như không khác mấy với phim Tàu chiếu thường trực trên các kênh truyền hình lớn nhỏ của miền Bắc.
Cung cách lễ lạc tại miền Bắc bị ảnh hưởng rõ rệt văn hóa mê tín dị đoan du nhập từ Trung Quốc. Những hình thức cúng tế xin xỏ điều lợi lộc được nhà nước công khai cổ vũ, thúc đẩy và tạo cơ hội cho dân chúng tiếp cận mà khai ấn đền Trần hàng năm là một ví dụ.
Phim Tàu, mê tín cũng tràn ngập miền Nam nhưng có lẽ nhờ chút miễn nhiễm từ một nền văn hóa do Pháp để lại, cộng với khí chất sông nước phương Nam đã khiến cho số lớn người dân miễn nhiễm với nền văn hóa ô hợp phương Bắc.
Vào Sài Gòn người ta khó gặp cảnh người ăn xin bị xua đuổi một cách tệ hại như tại Hà Nội. Tại Hà Nội người ta có thể kéo áo nhau giữa đường để đòi nợ nhưng ở Sài Gòn thì con nợ chủ động than thở với chủ nợ và chờ đợi sự cảm thông.
Một gánh rau bán ế có thể được người mua thông cảm tại Sài Gòn nhưng khó mà tìm một cái chắt lưỡi của người Hà Nội. Tất cả những khác biệt khó nhận ra ấy đã hình thành hai nền văn hóa ứng xử trái ngược. Không phải giai cấp xã hội hình thành cách ứng xử ấy mà chính là nền văn hóa ngoại nhập đã xô đẩy người dân vào quỹ đạo của những tật nguyền văn hóa.
Kinh tế gia Bùi Kiến Thành, một Việt kiều sống và làm việc nhiều năm tại Hà Nộ có cơ hội quan sát và sống cùng với người dân thủ đô đưa ra nhận xét của một người gốc gác miền Nam như sau:
“Trong Nam thì đất rộng người thưa, bao nhiêu năm nay cuộc sống rất là thoải mái khác với miền Bắc đất hẹp người đông cho nên việc tranh giành nhau nó có lẽ khác biệt hơn trong Nam.
Ở ngoài Hà Nội thì một cái nhà ngang 3-4 mét bề sâu thì 5-10 mét đó là nhà phố cổ như vậy từ bao nhiêu lâu nay rồi. Trong Nam thì đất rộng hơn nhà thì 5-7 mét chiều ngang, hai ba chục mét chiều sâu… vì vậy cho nên cái không gian trời đất cho mình nó ảnh hưởng không gian trong đầu óc của mình nên nó thoáng hơn.”
Trừng phạt người vi phạm?
Không riêng chốn công cộng mới có chuyện gây gỗ, thóa mạ hay tấn công lẫn nhau mà nơi công sở cũng đầy dẫy hiện trạng bê bối của cách hành xử. Có lẽ do cảm nhận được sự nguy hiểm khi danh tiếng Tràng An bị đánh mất, Ủy ban nhân dân thành phố Hà Nội đã soạn thảo một thông tư có nội dung “khung hệ thống các quy tắc ứng xử tại nơi làm việc, nơi công cộng”
Theo báo Lao Động thì quy tắc này đặt ra các biện pháp trừng phạt người vi phạm nhằm thiết lập dần lối sống chuẩn mực của một xã hội văn minh lịch sự.
Nếu hình thức chỉ xử phạt để dẫn dắt người dân trở về con đường văn minh lịch sự như tờ báo mô tả thì chắc chắn sẽ không tiến tới một kết quả nào dù nhỏ nhất, mà trái lại có thể gây thêm hố chia rẽ giữa người có và người không có văn hóa ứng xử.
Chúng ta cứ ngẫm nghĩ chậm rãi, từ từ chúng ta sẽ thấy nó như thế nào. Đó là hàng chục năm nay chúng ta mơ ước xây dựng thành công con người mới xã hội chủ nghĩa và khủng khiếp thay chúng ta đã thành công.
-Đỗ Trung Quân

Làm sao có thể viết giấy phạt khi một người không biết nói cám ơn? Mặc dù ai cũng biết hai tiếng cám ơn và xin lỗi là căn bản nhất cho bất cứ nền văn hóa nào trong cung cách ứng xử, thế nhưng muốn cả xã hội ý thức được điều ấy thì không một sự trừng phạt nào có thể được chấp nhận ngoại trừ giáo dục người dân ý thức và thực hành nó trong trạng thái phản xạ bình thường.
Xử phạt người không nói cảm ơn là vi phạm hiến pháp bởi không một luật lệ nào dù của một bộ lạc sơ khai lại mang một người không hề vi phạm pháp luật ra để mà xử phạt. Cám ơn hay không cám ơn không hình thành bộ mặt văn hóa, nó chỉ là một góc của toàn cảnh và thiếu nó trong một bối cảnh nào đó người ta chỉ có thể cảm thấy bị xúc phạm một cách lặng lẽ chứ không bao giờ gây ra hậu quả nào có hại cho cộng đồng.
Cũng giống như câu chuyện bún mắng cháo chửi chỉ xảy ra tại Hà Nội. Người mua hàng không cần biết tự trọng khi chấp nhận thái độ khinh người của chủ quán để ăn một bát bún có thể ngon hơn nơi khác nhưng sự mất mát sau bát bún ấy không ai có thể tính toán một cách chính xác nó như thế nào.
Những ngôn từ thô lỗ có làm cho khách cảm thấy bị sỉ nhục hay không chính là thước đo lòng tự trọng của họ. Khi lòng tự trọng bị đánh đổi chỉ với một bát bún thì nhân phẩm của người ngồi nghe chửi để được ăn ấy chắc không hơn giá trị một bát bún 20 ngàn tiền Việt Nam.
Văn hóa ứng xử đến từ nhân cách của mỗi con người trong tập thể xã hội. Nỗ lực cải cách nhân cách bằng hình thức xử phạt chỉ nói lên sự bất lực lớn lao của nền giáo dục và chính sách gìn giữ bảo tồn văn hóa của nhà nước. Nếu xét kỹ từng sự kiện rời rạc thì sẽ không khó để nhận ra rằng chính những cán bộ trong hệ thống cầm quyền lại là những cá nhân cần điều chỉnh lại nhân cách nhất.
Những yếu tố khiến dân chúng vô tình bị ảnh hưởng đó là cung cách sống, phát ngôn, hành xử và ban bố luật pháp tùy tiện của cán bộ cao cấp của hai thành phố.
Nếu Sài Gòn ít bị than phiền về thói xấu có tính hệ thống ấy thì Hà Nội lại dày đặc các mẩu tin về phát ngôn trái khoáy khiến dân chúng lâu dần không cảm thấy lạ lùng nữa. Đã không lạ lùng mà còn được xem là bình thường và từ đó ăn sâu vào tiềm thức hình thành nên thói quen xem thường người khác như quan cán bộ xem thường dân chúng.
Nhiều nhà nghiên cứu cho rằng tầng lớp di dân vào thành phố đã biến dạng văn hóa ứng xử của người dân thủ đô. Thật ra di dân các tỉnh kéo về Sài Gòn đông hơn Hà Nội vậy mà nó vẫn dung chứa và sống cùng với những con người khốn khổ ấy gây mối tương quan xã hội trên cách hành xử đậm tình người hơn cách mà người dân Hà Nội đã làm.
Người ta còn nhớ câu chuyện cướp hoa của người dân Hà Nội chung quanh Hồ Gươm vào đầu năm nay. Trong khi người dân Sài Gòn hằng năm vẫn tổ chức những chợ hoa khổng lồ mà không hề xảy ra sự đáng tiếc nào thì tại Hà Nội người dân hành xử hoàn toàn khác hẳn. Giáo sư Nguyễn Đăng Hưng chia sẻ điều mà theo ông cốt lõi vấn đề bắt đầu từ sự kiện cải cách ruộng đất:
“Ngay cả ông Tô Hoài cũng đã viết rất nhiều sách về cái cảnh con tố cha vợ tố chồng thời kỳ cải cách ruộng đất. Đây là điều làm suy sụp văn hóa truyền thống. Cái văn hóa dở hơi này nó xuất hiện rất sớm ở miền Bắc và ở miền Nam sau năm 75 cho nên cái bề dày ảnh hưởng văn hóa ở miền Bắc nó nặng nề hơn miền Bắc tệ hơn miền Nam về vấn đề thanh lịch, lễ phép và lịch sự.
Bằng chứng là ở Sài Gòn này chợ hoa Nguyễn Huệ đã có từ trước năm 75 rồi sau này sau năm 75 mỗi năm đều có chợ hoa. Chợ hoa được dân chúng thưởng lãm trân trọng tron ba ngày tết không có vấn đề gì. Trong khi đó ở Hà Nội có một lần tổ chức chợ hoa, nhập vê một số hoa anh đào của Nhật thì bị người dân Hà thành tới khuân về, chỉ một đêm là không còn cái hoa nào cả.
Đó mới thấy sự tôn trọng thẩm mỹ, tôn trọng thủ công tôn trọng nền văn hóa không được thấm nhuần nữa. Người ta muốn chiếm đoạt, người ta muốn đem về cho mình. Cái văn hóa kiểu ấy nó đã xuất hiện rất lâu tại miền Bắc và còn tác hại cho tới bây giờ.”
Nhà thơ Đỗ Trung Quân đưa ra một ý tưởng lý thú mà ông cho rằng gói gọn trong một câu chuyện có vẻ tiếu lâm nhưng hoàn toàn có thể áp dụng cho xã hội ngày nay khi mà nhà nước muốn đào tạo những tầng lớp thanh niên hoàn toàn tránh xa chuẩn mực của văn hóa ứng xử:
“Tôi chỉ xin tổng kết bằng một câu, có thể rất hài hước nhưng hoàn toàn chính xác. Chúng ta cứ ngẫm nghĩ chậm rãi, từ từ chúng ta sẽ thấy nó như thế nào. Đó là hàng chục năm nay chúng ta mơ ước xây dựng thành công con người mới xã hội chủ nghĩa và khủng khiếp thay chúng ta đã thành công. Một câu nói hài hước có vẻ chỉ là đùa chơi thôi nhưng nó cho thấy toàn bộ câu hỏi của anh, và đó cũng là câu trả lời của tôi thưa anh.”
Dĩ nhiên không phải ai sống tại Hà Nội cũng đều thiếu văn hóa ứng xử hay tại Sài Gòn thì sẽ thành hòn ngọc Viễn Đông nhưng câu nói “con sâu làm rầu nồi canh” vẫn làm cho cả nước xót xa cho một nền văn hóa không đáng bị xem thường như thế.
Nền văn hóa ứng xử thiếu xương sống ấy vẫn đang lan rộng trong từng giai tầng Việt Nam. Nó như căn bệnh hoại thư, không thể chữa lành nếu người bệnh không cảm giác bị đau đớn nơi vết thương trên cơ thể của họ.
Cắt bỏ một ung nhọt là việc làm quá dễ trong khi không cho ung nhọt xuất hiện cần một nỗ lực hàng trăm năm, nhất là ung nhọt của một nền văn hóa còi cọc và chấp vá bởi nhiều nền văn hóa khác.

Lệ Thần Trần Trọng Kim:Thư gửi Hoàng Xuân Hãn năm 1947

20-08-2014

Nguyễn Đức Toàn/Viện Nghiên cứu Hán Nôm/ Blog Hán Nôm
Ảnh lấy từ Wikipedia
Trần Trọng Kim (1887-1953) là một nhà giáo, một nhà nghiên cứu văn học, sử học có tiếng trong giới trí thức nước ta thời cận đại. Ông đã để lại nhiều công trình nghiên cứu có giá trị, như Nho giáo, Việt Nam sử lược, có đóng góp cho tri thức và nghiên cứu lịch sử văn hóa nước nhà. Trong khi tiếp xúc với văn bản Nam quốc địa dư chí, tôi phát hiện ra bức thư này nằm giữa tờ bìa ngoài gấp đôi đã bị phết hồ dán kín lại, do thời gian lâu ngày lớp hồ khô đi, trong lúc kiểm tra văn bản bức thư vô tình rơi ra. 

Được biết một số sách Hán Nôm có nguồn gốc từ thư viện riêng của gia đình GS. Hoàng Xuân Hãn. Bức thư này có lẽ đã đến tay cụ Hoàng và được cụ Hoàng dấu kín vào tờ bìa của cuốn Nam quốc địa dư chí, mà sau này được hiến tặng lại cho thư viện. Đối chiếu với tập hồi ký Một cơn gió bụi của cụ Trần đã được xuất bản trong những năm 60, chúng tôi nhận định đây chính xác là bút tích và giọng văn của cụ Lệ thần - Trần Trọng Kim, vì những nhân vật trong thư nhắc đến đều là những gương mặt trí thức chính trị đương thời với cụ. Ngày tháng, sự kiện, giọng văn và tư tưởng trong bức thư hoàn toàn phù hợp với ngày tháng, sự kiện, giọng văn, tư tưởng của cụ Trần trong tập hồi ký đã nêu trên.
Chúng tôi xin được giới thiệu nội dung bức thư như một phần di cảo bút tích của một nhà giáo, một học giả uyên bác và đức hạnh, một nhà nghiên cứu Nho giáo tân học cuối cùng, sau hơn nửa thế kỷ nằm im lìm trong một tập sách cũ. Thấy rõ thêm mối quan hệ giữa hai gương mặt trí thức lớn của nước ta trong lịch sử cận đại. Bên cạnh đó, đặt ra vấn đề thận trọng và nghiêm túc trong công tác bảo quản các tư liệu Hán Nôm của chúng ta hiện nay. 
Bức thư gồm 2 tờ viết 2 mặt. 
Nội dung như sau :
 Sài Gòn, ngày 8 tháng 5, năm 19471
Ông Hãn2
Hôm ông Phan văn Giáo3 đưa cái thư của ông vào cho tôi, tôi không gặp ông ấy. Tôi xem thư của ông, nhất là đoạn viết bằng chữ nôm, tôi biết rõ sự tình và tôi đã phiên dịch ra quốc-ngữ, gửi sang để Ngài4 xem.
            Gần đây tôi lại được thư khác của ông, do ông Giáo gửi lại cho tôi, đại khái cũng như thư trước. Cái tình thế nước ta bây giờ, tôi cũng hiểu đại khái như ông, cho nên trước khi tôi về, tôi đã dặn Ngài : Trừ khi có bằng-chứng chắc-chắn, thì ngài chớ nghe ai mà về. Sau khi tôi đã về đây rồi tôi lại viết thư ra nhắc lại lời dặn của tôi. Vậy sự ngài về chắc là không có.
Tôi sở dĩ về đây là vì Ngài và tôi ở bên ấy5, hoang-mang chẳng biết rõ gì cả, nhân có ông Cousseau6 do ông D’argenlieu7 sai sang gặp Ngài và tôi, nói Pháp sẵn lòng đổi thái-độ để cầu hoà-bình. Ngài thấy thế bảo tôi về tận nơi xem thái độ người Pháp có thật không, và nhân tiện xem ý tứ người Việt ta thế nào. Nếu làm được việc gì ích lợi cho nước và để cho dân đỡ khổ, thì ta cố làm cho trọn nghĩa-vụ của mình, nếu không thì lương-tâm ta cũng yên, vì đã cố hết sức mà không làm được8.
Tôi về đây hôm 6 tháng hai tây9, không gặp ông D’argenlieu, vì ông ấy sắp về Pháp. Ông ấy cho người bảo tôi chờ ông ấy sang sẽ nói chuyện. Tôi có gặp mấy người có chủ nhiệm về việc chính trị, nói chuyện thì tử-tế lắm và đồng ý hết cả. Nhưng xét ra họ nói một đường, làm một nẻo, toàn là những việc mưu-mô lừa dối cả. Lúc đầu tôi có xin cho tôi dược gặp ông, ông Hiền10 và Khiêm11, họ hứa sẽ cho vào ngay, nhưng mãi chẳng thấy ai vào. Tôi biết ý [tr1] cũng không hỏi nữa.
Tôi xem việc người Pháp làm, không thấy gì là chân thực. Họ thấy tôi giữ cái thái-độ khảng khái không chịu để họ lợi dụng, họ phao ra rằng tôi nhu-nhược và đa nghi không làm được việc. Họ cho những người Nam thân tín của họ đến nói muốn gặp tôi, tôi từ chối không gặp ai cả. Cũng vì thế tôi không muốn gặp ông Giáo. Tôi có nói với người Pháp rằng : Tôi về đây, là tin ở lời hứa hẹn của ông Cousseau là đại biểu của Thượng xứ Pháp, nay công việc không xong, thì cho tôi trả ra để bảo cho Ngài biết. Họ nói : Việc ấy cố nhiên rồi, nhưng ông hãy thong-thả chờ ít lâu. Họ nói thế, nhưng tôi biết là họ không cho tôi ra với Ngài, và họ lại cho người khác nói chuyện với Ngài12.
Dù sao, tôi cũng không ân-hận vì việc tôi về đây. Có về đây mới biêt rõ sự thực. Biết rõ sự thực thì cái bụng tôi yên không áy náy như khi ở ngoài kia. Bây giờ tôi nhất định không làm gì cả. Nếu thời cục yên-ổn thì tôi về ngoài Bắc, néu không tì xoay xở ở tạm trong này, chờ khi khác sẽ liệu.
Còn về phương diện người mình, thì tôi thấy không có gì đáng vui. Phe nọ đảng kia lăng-nhăng chẳng đâu vào đâu cả. Ai cũng nói vì lòng ái-quốc, nhưng cái lòng ái-quốc của họ chỉ ở cửa miệng mà thôi, nhưng kỳ thực là vì địa-vị và quyền-lợi, thành ra tranh dành nhau, nghi-kỵ nhau rồi lăng-mã lẫn nhau. Tôi về đây chỉ gặp Thảo13, Hoè14 và Sâm15. Tôi bảo Sâm nên tìm cách đoàn kết nhau thành khối, thì mới có thể đối phó với người ta được. Sâm cũng cho ý kiến ấy là phải. Song một độ thấy bẵng đi, không đến gặp tôi, rồi bất thình-lình xuất hiện ra Mặt trận quốc gia16, mà không cho tôi biết. Mãi mấy hôm nay mới đến nói rằng vì sự đi lại khó khăn, nên không kịp nói cho tôi biết việc ấy. Tôi bảo hắn rằng : Việc ông làm đó, là việc nên làm, nhưng trước hết phải xếp đặt cho chu-đáo, phải có đủ các cơ-quan tuyên truyền và bênh-vực việc làm của mình. Nhất là phải giao-thông với Mặt trận kháng chiến17, họ [tr2] có đồng ý, thì việc ông làm hoạ may mới có hiệu-quả. Nay việc chưa xếp đặt ra gì cả mà ông đã vội-vàng xướng xuất ra như thế, tôi e khó thành được. Hắn nói : Việc đã trót rồi, đã ném lao thì phải theo lao.
Tôi thấy tình thế có nhiều nỗi khó khăn quá, mà minh thì thân cô thế cô, không làm gì được, cho nên chỉ giữ cái dịa vị bàng-quan mà thôi, thật là: 
      
           
(Thân tại Nam phiên vô sở dự,
Tâm hoài bách ưu phục thiên lự.
= Thân ở cõi Nam không tham dự việc chính trị,
Lòng đã ôm trăm mối lo lắng lại thêm nghìn điều ưu lự)
Tôi vẫn biết việc chống với Pháp chỉ có V.M. mới làm nổi, nhưng vì chỉ tiếc họ quá thiên về chủ-nghĩa cọng-sản quá. Họ chỉ có một mục-đích là thi hành chủ nghĩa của họ, họ dùng đủ phương diện để đưa người ta vào cái chòng của họ. Sự hành-động của họ ở bên ta cũng như bọn cọng sản đã dùng ở bên Tàu và ở các nước khác, đều theo một lối đúng nhau như hệt. Họ không cần quốc-gia, không cần đạo-đức, nhưng có nhiều người tin ở nghĩa quốc-gia, thì họ lợi dụng cái nghĩa quốc-gia để đạt cái chủ-nghĩa của họ. Lừa dối xảo-quyệt đủ đường, cho nên người ta dễ mắc lừa lắm.
Nay V.M. đứng vào cái địa-vị chống Pháp, tất là có cái thanh-thế rất mạnh. Nếu họ biết đổi cái thái-độ hung tàn bạo ngược đi, và tìm cách thu dụng các đảng phái khác, để lập thành một khối, không khuynh hướng hẳn về Cọng sản, thì có cơ thành công được, nhưng bảo con chó sói trở nên con cừu, thì có thể được không? Dù sao, đối với viêc nước mình, V.M phải chịu cái tiếng (Công chi thủ tội chi khôi = Công đứng đầu mà tội cũng đứng đầu). Đó là ý kiến riêng của tôi, còn các ông nghĩ thế nào tôi không biết.
Khi tôi ở Hương- cảng, ông Cousseau có cho tôi biết tin ông Oánh18 bị Tây giết, tôi thương ông Oánh quá, có làm bài tuyệt- cú gửi về, nhờ ông đem điếu ông ấy:
            Khóc bạn Nguyễn Băng Hồ
            Đất khách mơ - màng những thở - than,
            Mảng tin bác bị lũ hung tàn.
            Ngắn dài giọt lệ lòng thương bạn,
            Căm giận quân thù đã tím gan.
Ông Oánh sinh thời là một người trung hậu ngay chính, ở đời này thật là ít có. Chẳng may vì duyên nghiệp mà phải cái nạn tai bay vạ gió. Thôi [tr3] thì cũng là một cách ông ấy trả nợ nước.
Tôi muôn nhờ ông một tí việc, khi tôi đi, tôi còn một bản đánh máy tập Vũ trụ đại quân19 gửi ông Oánh, nhờ ông thử hỏi nhà ông Oánh xem tập ấy có còn nữa không. Nếu còn, thì ông làm ơn giữ lấy cho tôi, kẻo công trình mất mấy năm trời mà mất đi, thì tiếc quá.
Nhờ ông nói với Khiêm, nhờ hắn đến qua chỗ nhà tôi ở Nhà Rượu20, xem có ai coi giữ cái nhà đã bị đốt21 đó không. Nếu có người coi, thì nhờ Khiêm thử vào trong nhà xem những sách vở có còn gì nữa, thì nhờ hắn nhặt đem về giữ lấy cho tôi. Còn cái nhà bên cạnh mà không hư hỏng lắm thì nhờ hắn xem có thể chữa sửa được không. Giá có thể chữa lại it nhiều rồi cho người ta tạm thuê để lấy tiền và cốt nhất là khi nào tôi có về được, mong còn có chỗ che sương che nắng.(Việc này không cần nữa, vì tôi đã gặp Khiêm ở đây rồi.)22
Ông có biết tin ông Bùi Kỷ23 bây giờ ở đâu không. Tôi về đây không có tin tức gì về đường nhà ông Bảng cả.
Nhà tôi và Chương24 đều có lời chúc ông bà được mạnh khoẻ. Tôi có lời thăm ông Hiền, Khiêm và Hoè và tất cả các bạn. Ông Hoè hôm ra Hà-nội có đến gặp tôi, nhưng vội quá, không viết được thư. Bây giờ ông Hoè ở đâu và làm gì?
Sau này ông có gửi thư cho tôi, nên để chờ khi nào có người chắc chắn vào đây, đưa đến cho tôi thì hơn. Không nên gửi người không được chắc chắn.
                                                            Nay kính thư
                                                                        Trần Trọng Kim [tr4]
Chú thích :
1. 8/5/1947 : ngày viết thư. Một cơn gió bụi có ghi việc Cao uỷ Pháp là Bollaert ra Bắc : “ngày 8/5 mấy hôm trước khi ông Bollaert ra Bắc, ông Didier Michel hẹn đến gặp tôi”. Bức thư có lẽ được cụ Trần nhờ Didier Michel gửi hộ.
2. Ông Hãn: Chỉ Hoàng Xuân Hãn, nguyên Bộ trưởng bộ giáo dục và Mỹ thuật của chính quyền Trần Trọng Kim trước Cách mạng tháng 8. Năm 1947 Hoàng Xuân Hãn còn đang ở Hà Nội.
3. Phan văn Giáo: Dược sĩ, chủ hiệu thuốc lớn ở Thanh Hoá, là nhà Tư sản nổi tiếng có tư tưởng thân Pháp. Bị bắt trong Cách mạng tháng 8, sau được thả ra. Sau năm 1945 tiến hành nhiều cuộc vận động để khôi phục chính thể quân chủ ở miền Nam. 
4. Ngài : Chỉ vua Bảo Đại - Vĩnh Thuỵ, lúc này đã thoái vị. Sau được chính quyền cách mạng cử đi công cán Trung Quốc, thì ở lại không về và sang ở Hương Cảng. (Trần Trọng Kim; Phạm Khắc Hoè, sđd)
5. Bên ấy : Khi Cách mạng tháng 8 nổ ra thì Trần Trọng Kim đang ở Huế. Bảo Đại thoái vị, ông về ở làng Tại Thế gần thôn Vĩ Dạ, đóng cửa đọc sách không ra ngoài. Đầu năm 1946 thì về Hà Nội, không tham gia việc gì nữa. Sau khi Bảo Đại đi sang Trung Quốc, rồi ở lại không về. Cuối tháng 5/1946, quân Tầu Tưởng rút dần về nước. Tháng 6/1946, Trần Trọng Kim theo một số người của Quốc Dân đảng sang Trung Quốc tìm bắt liên lạc với Bảo Đại, và gặp nhau ở Hương Cảng. 
6. Cousseau : Quan cai trị, từng làm Công sứ ở nhiều tỉnh tại Bắc Kỳ, là người móc nối dàn xếp đưa Bảo Đại từ Hương Cảng về nước để thành lập chính phủ theo ý người Pháp. (Phạm Khắc Hoè. sđd)
7. D’argenlieu : Cao uỷ Pháp tại Đông Dương lúc bấy giờ. Năm 1947 thì về nước cho Bollaert sang thay. (sđd)
8. Trần Trọng Kim, sđd, tr166, 167... 
9. hôm 6 tháng 2 tây : ngày Trần Trọng Kim về đến Sài Gòn. Một cơn gió bụi có ghi : “ngày 5 đến Sài Gòn, nhưng đến sáng mùng 6 mới lên bờ.” 
10. ông Hiền : Luật sư Vũ Văn Hiền, từng tham gia Nội các của chính quyền Trần Trọng Kim, giữ chức Bộ trưởng bộ Tài chính. Bị quân Pháp bắt giữ sau ngày toàn quốc kháng chiến năm 1946 ở Hà Nội cùng với Phạm Khắc Hoè, Hoàng Xuân Hãn, Nguyễn Xuân Chữ, ... sau được thả ra. (Phạm Khắc Hoè, sđd)
11. Khiêm : Có thể là Phạm Duy Khiêm, người cùng tham gia với Trần Trọng Kim soạn sách “Việt Nam văn phạm”. 
12. Trần Trọng Kim lúc này đã không còn giá trị. Người Pháp muốn tách ông ra khỏi Bảo Đại để không thể gây ảnh hưởng, cản trở ý đồ thành lập một chính phủ theo ý muốn của người Pháp.
13. Thảo : Luật sư Trịnh Đình Thảo (1901-1986), luật sư toà Thượng thẩm Sài Gòn, là một luật sư rất có uy tín, thường đứng ra bảo vệ quyền lợi của nhân dân lao động cấp dưới, từng tham gia Nội các của chính quyền Trần Trọng Kim, giữ chức Bộ trưởng bộ Tư pháp, Phó chủ tịch hội đồng cố vấn chính phủ lâm thời miền Nam Việt Nam. Sau ra chiến khu tham gia thành lập Liên minh các lực lượng dân tộc dân chủ hoà bình Việt Nam, đi nhiều nước vận động chấm dứt chiến tranh tại Việt Nam, Uỷ viên trung ương mặt trận tổ quốc, Đại biểu quốc hội. 
14. Hoè : Phạm Khắc Hoè, giữ chức Đổng chưởng lý văn phòng Ngự tiền của vua Bảo Đại. Sau này đi theo kháng chiến, bị Thực dân Pháp bắt đưa về miền Nam dụ dỗ quay trở lại phục vụ Bảo Đại không thành, phải thả ông ra ở Hà Nội, ông tìm cách trốn khỏi thành phố lên chiến khu, có viết tập hồi ký “Từ triều đình Huế đến chiến khu Việt Bắc”. Tập hồi ký này có nhắc đến việc ngày 16/4/1947, Phạm Khắc Hoè có đến chào từ biệt Trần Trọng Kim trước khi ra Hà Nội. Thư này viết sau khi Phạm Khắc Hoè đi Hà Nội gần một tháng (8/5/1947). (Phạm Khắc Hoè, sđd)
15. Sâm : Nguyễn Văn Sâm, Chủ tịch hội ký giả Nam Kỳ. Bị Thực dân Pháp an trí ở Sóc Trăng vì những hành động chống Pháp. Năm 1945, tham gia chính quyền Trần Trọng Kim, Hội viên hội đồng dự thảo Hiến pháp. Sau được phái đi làm Khâm sứ Nam Kỳ để tiếp thu Nam Kỳ được Nhật trao trả, chưa kịp thực hiện thì cách mạng tháng 8 bùng nổ. Là người tham gia thành lập Mặt trận quốc gia Việt Nam ở miền Nam, là thủ lĩnh đảng Việt Nam quốc dân độc lập, ông bị ám sát chết cuối năm 1947. (Nguyễn Quang Thắng, sđd)
16. Mặt trận quốc gia : Ngày 17-2-1947, Nguyễn Hải Thần, ông Nguyễn Tường Tam cùng một số nhân sĩ đã tiếp xúc với Bảo Đại và đã thành lập một Mặt Trận mệnh danh là Mặt Trận Quốc Gia nhóm tại Hương Cảng gồm: Việt Nam Cách Mạng Đồng Minh Hội, Việt Nam Quốc Dân Đảng, Dân Chủ Xã Hội Đảng, Việt Nam Quốc Gia Thanh Niên Đoàn có mục đích lợi dụng Bảo Đại để tranh thủ độc lập nhưng Bảo Đại cũng như các nhà thực dân khác không chịu được sự "khó tính" của Mặt trận này nên đã gạt khéo Mặt trận ra ngoài và sau này, Bảo Đại về lập chính phủ chỉ có nhân viên của các nhóm tư bản và của đế quốc cộng tác mà thôi. Với những thành phần "Nam kỳ quốc" và bọn tay chân của đế quốc, Pháp tạo ra các chiêu bài độc lập, tính đánh lừa dân chúng Việt Nam nhưng đã thất bại. Nguyễn Văn Sâm chắc cũng tham gia trong mặt trận này.
17. Mặt trận kháng chiến : Chỉ Mặt trận kháng chiến của nhân dân miền Nam (?)
18. ông Oánh : Tức Nguyễn Quang Oánh (1888-1946), anh ruột Nguyễn Văn Ngọc (hiệu Ôn Như). Làm Thanh tra các trường Sơ học, Hội viên hội đồng cải cách giáo dục của chính quyền Trần Trọng Kim, từng cùng Trần Trọng Kim và Bùi Kỷ biên soạn sách Tiểu học Việt Nam văn phạm giáo khoa thư. Toàn quốc kháng chiến, ông bị giặc Pháp ập vào nhà bắn chết ngày 22/12/1946. (Trần Văn Giáp, sđd); Nguyễn Băng Hồ : Chỉ tên hiệu của ông Nguyễn Quang Oánh là Băng Hồ.
19. Vũ trụ đại quan : Một trong các công trình nghiên cứu của Trần Trọng Kim. (Trần Văn Giáp, sđd)
20. Nhà Rượu : Trần Trọng Kim có nhà ở khu vực gần Nhà máy Rượu Hà Nội (phố Nguyễn Công Trứ). Tức là căn nhà 41 phố Hàng Chuối (Trần Trọng Kim, Một cơn gió bụi, Nxb.Vĩnh Sơn, S., 1969)
21. “Cái nhà của tôi ở phố nhà Rượu cũng bị quân tự vệ đốt cháy. Thành ra bao nhiêu sách vở của tôi, có lắm quyển rất cổ rất quý, tích trữ trong mấy chục năm, đều hoá ra tro tất cả. Tôi vẫn chưa hiểu vì lẽ gì mà họ đốt nhà tôi, hoặc là vì đốt nhà bên cạnh mà cháy lây sang, hoặc vì Việt Minh thấy tôi bỏ đi, họ giữ không được, họ cho lệnh đốt nhà cho bõ tức”. Trần Trọng Kim, sđd.
22. Tác giả tự đánh dấu, và ghi chú sang bên cạnh thư, nhắc việc này thôi vì đã nhờ được rồi. 
23. Bùi Kỷ : Tức cụ Phó bảng Bùi Kỷ (1887-1960), Hội viên hội đồng cải cách giáo dục của chính quyền Trần Trọng Kim, cùng Trần Trọng Kim biên soạn nhiều tác phẩm : Truyện Thuý Kiều, Việt Nam văn phạm, Nho giáo. Chủ tịch Hội văn hoá kháng chiến liên khu 3, uỷ viên Hội Liên Việt liên khu, Chủ tịch hội hữu nghị Việt- Trung. (Trần Văn Giáp, sđd)
24. Chương: Tên người, lúc đầu tôi chỉ tra cứu được 1 người tên Chương là Luật sư Trần Văn Chương, từng tham gia Nội các của chính quyền Trần Trọng Kim, giữ chức Bộ trưởng bộ Ngoại giao. Đến hôm 9.2.2014, bài viết nhận được phản hồi từ bà Phạm Thị Lệ Hương, 1 Việt kiều Mỹ cung cấp thông tin sửa sai cho, tên Chương là tên con gái cụ Trần Trọng Kim, tức bà "Trần Thị Diệu Chương, vì trong thư Cụ Kim thường kêu các C ngang tuổi là Ông… mà không nói tên trống không như thế này, vả lại Cụ viết “nhà tôi [tức là vợ của C] và Chương đều có lời chúc ông bà…” thì chắc chắn phải là người trong gia đình Cụ. Con gái độc nhất của cụ tên là Trần Thị Diệu Chương, vẫn còn sống ở Pháp, năm nay cỡ 90 hay trên 90 tuổi 1 chút (ngang tuổi ông Bùi Diễm là con trai Cụ Bảng Bùi Kỷ là first cousin của bà Trần Diệu Chương, vì CBùi Kỷ là anh của Cụ bà Trần Trọng Kim).] Sở dĩ tôi dám quả quyết như thế này là vì tôi là người trong họ của Cụ bà Trần Trọng Kim, nên tôi đọc thư của Cụ Kim viết cho Cụ Hoàng Xuân Hãn tôi hiểu như thế. Tôi có hỏi thêm những người trong họ thì mấy nguời đó cũng nghĩ như tôi viết cho anh  trên." (trích thư phản hồi của bà Phạm). Tôi xin sửa lại chú thích này theo ý kiến phản hồi của bà Phạm và xin trân trọng cám ơn bà. 

Thư mục tham khảo

1.Lệ thần - Trần Trọng Kim, Một cơn gió bụi, Nxb Vĩnh Sơn, S,. 1969
2. Phạm Khắc Hoè, Từ triều đình Huế đến chiến khu Việt Bắc, H,.1986
3. Nguyễn Quang Thắng, Từ điển nhân vật lịch sử Việt Nam. S,.1982
4. Trần Văn Giáp, Lược truyện các tác gia Hán Nôm II. H.,1987
5. La Sơn Yên Hồ - Hoàng Xuân Hãn. Nxb GD, H,. 1998 (2t)

Phụ lục ảnh nguyên bản: